Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 7 tháng 3, 2012

Những ô gạch hoa

Khi tôi trở thành người gia đình thì ông kỹ sư  bố vợ của tôi đã mất đúng 10 năm. Ngôi nhà ông để lại giống như một chuồng bồ câu xinh xắn, nhà trệt với không gian mở ra bốn phía, sân rộng bao quanh, garage trước nhà, hai cây mận, vài cây chuối sau nhà, một cây dừa, một cây vú sữa và hoa cỏ do cô con gái út trồng và chăm sóc. Cô út chính là vợ tôi. Thành người gia đình mới biết thêm gốc gác nhà vợ. Ông bố vợ là dân Tây học, du học ở Pháp lấy vợ đầm cho đến khi về Việt Nam dạy Bách khoa chuyên ngành kết cấu bê tông. Trong xóm thường gọi ông là cụ kỹ sư Sáu.

“Cái chuồng bồ câu” sống và làm việc của ông và gia đình, có điều lạ là vật liệu sơ sài lắm. Tường gạch, vách gỗ, mái phi brô, lạ nhất là sàn gạch bông… đủ thứ kiểu gạch, hoa văn khác nhau, nghĩa là một cái sàn chỗ nào cũng sạch, nhưng nó như là thợ lát nền tiện tay quơ trúng viên gạch bông nào thì… lát xuống vậy. Cụ Sáu nổi tiếng nghiêm khắc, học trò toàn những người thành đạt sau này dễ gì lành tính tới nỗi thợ lát nền gạch bông muốn lát gì thì lát như thế này?

Ngôi nhà ấy sẽ là nơi cư ngụ hơn nửa thế kỷ đến tận hôm nay. Sao nền gạch bông ngộ nghĩnh thế nhỉ? Thì ra, đơn giản không ngờ. Vợ tôi kể, “ba dạy học, nhà thì đông con dù ông sống theo kiểu Tây trong ăn uống hàng ngày nhưng thật ra cũng chỉ thanh bạch thôi. Khi làm nhà, học trò mỗi người một tay gạch bông mang đến tặng thầy thế nên nó… đủ thứ hầm bà lằng mỗi viên mỗi kiểu như thế đó…”. Hoá ra học trò cũng chưa sung túc, chỉ mới ra trường vẫn xoay xở tặng gạch cho thầy làm nhà. Cái tình thầy trò “đủ màu, đủ sắc” trên cái nền nhà này, cứ lặng lẽ trôi qua hơn 60 năm. Kiếp người qua đi cả chỉ riêng cái nền gạch bông cứ bóng lên theo thời gian.

Khi ra riêng, một phần ngôi nhà thuộc về vợ chồng tôi. Xây ngôi nhà mới ngay sát vách “chuồng bồ câu” tôi bàn với vợ mở một lối qua lại nhà xưa, cũng là nhà từ đường. Cái lối xuyên qua chỉ hẹp ba mét ấy nền gạch bông “hầm bà lằng” kia tôi vẫn giữ lại không thay gạch mới “để nhớ ba, nhớ tình thầy trò của ba…”.

Nền gạch bông ấy dường như ẩn hiện một nghĩa tình khó còn gặp lại trong đời. Từ cái cách thể hiện “lạ lùng”. Giữ lại cũng để nhắc “Ba mình một đời thanh bạch…”.

Vợ tôi gọi người phụ nữ ấy bằng “má Ba”. Má Ba đặc trưng Nam bộ, búi tóc, áo bà ba, khăn vắt vai, hút thuốc rê, thuốc lá, thích đánh bài. Bà thời trẻ có nhan sắc nhưng số lận đận không có gia đình chồng con, nghe đâu cũng từng được nhiếp ảnh gia danh tiếng Nguyễn Cao Đàm thời ấy chụp nhiều kiểu hình tựa như người mẫu bây giờ. Bà thật ra là người giúp việc gia đình nhưng chẳng ai dám gọi thế. Cụ kỹ sư Sáu bắt con cái kêu bằng “má Ba”, vừa thân mật, thân tình, vừa không khinh thường vai vế người ăn kẻ ở. Má Ba ở luôn trong nhà, mọi việc gia đình đều qua tay má: giỗ chạp, tết nhất, má Ba lo hết. Đặc biệt cơm nước hai buổi kiểu Tây cho một người sành ăn và thích đồ Tây như cụ Sáu, món Tây phải do bà nấu mới đúng điệu. Chẳng ai trong nhà thay thế được má Ba vụ này. Khi cụ Sáu mất, giỗ chạp hàng năm cũng chỉ má Ba nấu cúng, bày bàn thờ, “ba bây thích món này tao nấu à nha! Ổng khó lắm à, rô ti gà phải rô ti thế này, khác là ổng giận liền…”. Má Ba ở trong nhà mấy chục năm, hai gia chủ lần lượt mất, má còn sống thêm dăm ba năm nữa. Ngày cô út thành vợ tôi, má kêu cô út lại “để má dạy cho con vài món sau này vừa thay má nấu cúng ba mày, vừa nấu cho chồng mày ăn…”.

Rồi má Ba mất. Con cái trong nhà làm thay má mọi việc. Ngày giỗ chạp, món nào bày lên bàn thờ cũng có ai đó nói nhỏ “nhớ má Ba, má còn sống nấu ngon hơn mình là chắc!”

Cái tình “chủ tớ” mà như người thân nay e cũng khó gặp lại trong đời. Nay ôsin là ôsin, may thì gặp người tốt, không may thì vài bữa khăn gói ra đi cùng với mớ tài sản nhà chủ là chuyện “nhựt trình”. Khổ lắm!

Đỗ Trung Quân

ảnh : Đăng Thường

nguồn: http://thegioif5.com/nhung-o-gach-hoa/

Thứ Năm, 6 tháng 1, 2011

110106- Khổ vì làng cổ, phố cổ- Kỳ 2: Phố cổ...bị treo

Phố cổ Bao Vinh hiện nay chẳng còn gì ngoài vài mái nhà cổ - Ảnh: THÁI LỘC

Hai khu phố cổ Gia Hội và Bao Vinh nằm ngay sát kinh thành Huế đang trong tình cảnh lụi tàn, dù đã được ban hành kế hoạch bảo tồn từ bảy năm trước.

Phố cổ Bao Vinh nằm về phía bắc ngoài kinh thành Huế, là một thương cảng của thủ phủ xứ Ðàng Trong giai đoạn thế kỷ 18 và cũng là thương cảng của kinh thành Phú Xuân vào đầu thời nhà Nguyễn.

Khu phố cổ Gia Hội - Chợ Dinh nằm ở phía đông ngoài kinh thành, là khu vực sầm uất bậc nhất xứ kinh đô Huế đầu thế kỷ 19. Năm 2003, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã phê duyệt quy hoạch xây dựng bảo tồn và phát huy đô thị cổ Bao Vinh trên diện tích 8ha. Kế đến là phê duyệt quy hoạch chi tiết khu đô thị cổ dọc trục đường Chi Lăng (còn gọi là khu Gia Hội - Chợ Dinh) rộng 30,66ha.

“Cấn cái quyết định”

Từ trước đó, năm 2002, tỉnh Thừa Thiên - Huế cho thành lập ban điều hành và bảo vệ phố cổ, do ông Phạm Quốc, lúc ấy là chủ tịch phường Phú Cát (hiện là bí thư phường), làm trưởng ban. UBND tỉnh cho lập phố ẩm thực bên bờ sông Ðông Ba, cạnh cầu Gia Hội, cùng với việc đưa tour tham quan phố cổ Gia Hội phục vụ du khách tại Festival Huế 2002 khiến nhiều người dân khấp khởi mừng thầm.

Ðến năm 2003, tỉnh tiếp tục phê duyệt hai đề án bảo tồn phục hồi hai khu phố cổ nói trên khiến người dân Huế xem như cứu tinh trước sự lụi tàn của chuỗi giá trị văn hóa phố thị rất đặc trưng. Hai khu phố cổ Bao Vinh và Gia Hội lúc này cơ bản vẫn còn nguyên hình hài với những nhà mái ngói liệt liêu xiêu chồng lên nhau xếp thành dãy dài. Thế nhưng sau bảy năm quyết định phê duyệt, hình ảnh hai khu vực phố cổ này hoàn toàn khác.

Theo thống kê của UBND xã Hương Vinh, từ những năm 1990 cụm Bao Vinh còn 39 nhà cổ thì đến nay chỉ còn 15 nhà. Phần lớn trong số 24 nhà cổ mất đi được thay thế bằng nhà tầng kiên cố với lối kiến trúc mới. Ông Nguyễn Văn Bổn - chủ tịch UBND xã Hương Vinh - cho biết kể từ ngày ban hành quyết định bảo tồn, ngoài số tiền 411 triệu đồng do Thượng viện Pháp tài trợ tu bổ ba ngôi nhà, hoàn toàn không có sự đầu tư hay quan tâm gì từ phía Nhà nước.

“Nhiều nhà cổ xuống cấp, dột nát và có nguy cơ sụp trước những trận lụt lớn, người dân xin phép sửa chữa nhà nhưng “cấn cái quyết định” nên xã không cấp phép. Họ tự ý tháo ra làm lại nhưng chúng tôi chẳng làm gì được vì chẳng có gì để hỗ trợ, mà nếu làm căng quá nhà sập, nguy hiểm đến tính mạng họ thì sao!”, ông Bổn nói.

Tương tự, ở khu vực phố cổ Gia Hội, theo điều tra của chúng tôi, trong khoảng 150 nhà mặt tiền đường Chi Lăng (đoạn Bạch Ðằng - Nguyễn Du), chỉ còn 23 nhà theo kiểu truyền thống mái ngói liệt, 32 nhà cổ kiểu Pháp. Số còn lại là nhà kiến trúc mới đủ kiểu, 2-3 tầng... Ông Phạm Quốc cho biết kể từ sau quyết định ban hành, không nghe cấp trên đặt vấn đề gì ngoài việc chỉ đầu tư sửa cái cổng và đường vào chùa Diệu Ðế.

Trong khi đó phần lớn người dân không muốn làm dân phố cổ vì quá bất tiện, lại chẳng được gì, do đó họ tìm cách sửa sang xây mới. Và tỉnh cũng như thành phố vẫn cấp phép xây dựng nhà cửa một cách ồ ạt, kể cả đối với những ngôi nhà mang dáng dấp cổ trong khu vực phố cổ. Ðặc biệt trong đó là việc cấp phép xây dựng Trường Chi Lăng với hai khối nhà cao năm tầng đồ sộ, phá vỡ hẳn không gian phố cổ vốn chủ yếu là nhà thấp tầng.

Ngôi nhà cổ “Đông Mậu từ” số 158 Bạch Đằng, Huế - một kiến trúc độc đáo thuộc phố cổ Gia Hội - đang xuống cấp nghiêm trọng - Ảnh: THÁI LỘC

Có nên tiếp tục gìn giữ?

Trước hai quyết định bị... treo, có nên tiếp tục gìn giữ hai khu phố cổ Bao Vinh và Gia Hội? Câu hỏi đó của chúng tôi đã nhận được cách trả lời khác nhau từ nhiều phía.

Ông Nguyễn Việt Tiến (nguyên giám đốc Sở Xây dựng, nguyên chủ tịch UBND TP Huế, hiện là chủ tịch Hội Quy hoạch Thừa Thiên - Huế) cho rằng: “Kiến trúc là sự phản ánh của lịch sử, cho nên không thể không gìn giữ những khu phố cổ như Gia Hội và Bao Vinh. Vấn đề là cần phải có chính sách giải quyết mâu thuẫn giữa bảo tồn và quyền lợi của người dân sao cho hài hòa; Nhà nước và người dân phải cùng bàn bạc tìm giải pháp để gìn giữ nó. Chúng ta đã ngâm quá lâu! Bây giờ nhất thiết phải làm sớm, nếu không thì cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng, công trình ngày càng xuống cấp trong khi Nhà nước lại chẳng khai thác được gì từ những giá trị này”.

Trong khi đó ông Nguyễn Văn Bổn cho rằng: “Không nên giữ nữa vì hiện có quá nhiều bất cập, ảnh hưởng quá lớn đến đời sống người dân và kinh tế của địa phương. Cử tri năm nào cũng kêu, xã từng nhiều lần kiến nghị cấp trên hủy quyết định bảo tồn khu phố cổ, nhưng đến nay vẫn không có sự thay đổi nào”.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Xuân Hoa, nguyên giám đốc Sở Văn hóa - thông tin Thừa Thiên - Huế, người trực tiếp tham gia xây dựng đề án quy hoạch bảo tồn khu phố cổ của Huế: “Những chủ trương lớn như thế này, theo tôi nên có tổ công tác điều tra, khảo sát lại để đề xuất cấp quản lý nên thực hiện như thế nào. Theo tôi, ở Bao Vinh hoàn toàn không có khả năng tổ chức khắc phục phố cổ. Tất nhiên nói như vậy không phải là xóa sạch tất cả, mà chỉ nên lựa chọn bảo tồn những đơn nguyên thật sự có giá trị.

Tương tự ở Gia Hội - Chợ Dinh, theo tôi không nên đặt vấn đề bảo tồn quá rộng như hiện nay mà chỉ nên tập trung một vài tuyến đường, đặc biệt là vòng cung Bạch Ðằng, đoạn đầu đường Chi Lăng... Khu vực này hội tụ rất nhiều yếu tố quý giá và đặc thù của đô thị cổ, như: quốc tự Diệu Ðế, đền thờ Ấn Ðộ giáo, nhà của người Nhật có công đưa môn võ karate đến VN, hệ thống hội quán Hoa kiều, hệ thống nhà kiểu Pháp đầu thế kỷ 20, những phủ đệ của các ông hoàng bà chúa và những ngôi nhà phố truyền thống... Một khu đô thị sát kinh thành mà hội đủ như thế thì quả là quá thú vị đáng để gìn giữ”!

THÁI LỘC

nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/419072/Pho-co-bi-treo.html

Thứ Ba, 4 tháng 1, 2011

110105- Khổ vì làng cổ, phố cổ- Kỳ 1: Làng cổ Đường Lâm...lâm nạn

Làng cổ đầu tiên được công nhận di tích quốc gia đang ngày càng trở nên không khác ngàn vạn cái làng tân kỳ khác, chỉ khác là người dân... kêu quá khổ. Hai khu phố cổ gắn liền với di sản văn hóa thế giới cũng đang đứng trước câu hỏi khổ ải: gìn giữ hay không gìn giữ...

Từ trục đường chính qua trung tâm làng cổ Đường Lâm có thể nhìn thấy lớp lớp nhà cao tầng - Ảnh: Nguyễn Mỹ

 Chưa bao giờ làng Việt cổ Đường Lâm lại ầm ĩ với một vụ cưỡng chế dỡ nhà của dân gây bức xúc như gần đây (Tuổi Trẻ ngày 18-12-2010). Như giọt nước tràn ly, nó làm lộ ra quá nhiều bất cập của một di tích quốc gia đang được quản lý một cách “được chăng hay chớ”.

Đầu tháng 1-2011 chúng tôi trở lại làng Việt cổ Đường Lâm (xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội), chứng kiến cảnh bà Hà Thị Khanh vẫn đôn đáo đi kêu cứu, kiến nghị về việc ngôi nhà trị giá gần 800 triệu đồng của bà đã bị phá dỡ. Nhà bà Khanh hiện nay bị vỡ toang hoác, vôi vữa, gạch ngói tanh bành, mưa nắng xuyên qua cầu thang lên tầng 2 (đã bị phá ở phía trên) cứ thế thốc vào giữa nhà, nợ nần chồng chất.

Nhiều người sống trong nhà 2, 3 tầng trong xã cứ như đứng ngồi trên... đống lửa, bởi phong thanh nghe tin chính quyền sẽ tiếp tục phá dỡ các ngôi nhà vi phạm “quy chế tạm thời”, “chỉ cho phép xây nhà cấp bốn và vật liệu truyền thống”.

Dân xin trả lại danh hiệu làng Việt cổ

Bà Khanh bị cơ quan chức năng quyết liệt phá dỡ nhà trong gần ba ngày. Gặp chúng tôi, nhiều người làng “đến xem cảnh phá nhà” đã cùng nhau “hô” lại cái kiến nghị bức xúc lúc nhà bà Khanh bị phá dỡ, rằng: Chúng tôi xin trả lại cho Nhà nước danh hiệu nhà cổ làng cổ, bởi 4-5 năm qua, kể từ khi được “vinh danh” là di tích quốc gia, ngoài tám ngôi nhà được trợ cấp vài trăm nghìn đồng/hộ/tháng thì hàng trăm hộ khác không ai được hưởng lợi gì. Đến việc xây nhà để ở cũng không được xây!

Theo điều tra của chúng tôi và theo thừa nhận của chính cán bộ văn hóa ở địa phương: trước, trong và sau khi bà Khanh làm nhà, bị cưỡng chế dỡ một phần nhà; nhiều người vẫn cứ đập nhà cũ xây nhà mới. Có ngôi nhà đầu tháng 1-2011 này vẫn đang xây dở dang, đỏ ối, 2-3 tầng.

Ngay từ cổng làng cổ nhìn vào, nhìn góc nào cũng ngất nghểu nhà cao tầng, hiện đại. Thế cho nên bà Khanh có lý do kêu cứu là bà bị xử ép.

Việc chấn chỉnh quy hoạch, nghiêm khắc bảo vệ không gian làng cổ là hết sức cần thiết, nhưng cơ quan chức năng cần làm việc có tình, có lý, thống nhất quan điểm hơn để người dân có thể tâm phục khẩu phục.

Báu vật bị “bỏ quên”

Xã Đường Lâm có chừng 1 vạn dân, chia làm năm thôn, chỉ có khoảng tám ngôi nhà cổ thật sự mở cửa đón khách. Như vậy, mỗi thôn chỉ có vài ngôi nhà cổ được phát tiền “quét mạng nhện” và trà nước tiếp khách du lịch, mức tiền cũng chỉ 150.000 đồng/tháng/hộ (chỉ có hai hộ được mức cao nhất là 400.000 đồng/tháng).

Hàng trăm hộ khác có thể nói hầu như không được hưởng lợi gì từ việc di tích quốc gia quê mình mở cửa đón du khách nườm nượp.

Trong khi đó quỹ đất ở tại Đường Lâm cực kỳ eo hẹp. Đường Lâm là làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được công nhận di tích cấp quốc gia (đến nay cả nước chỉ có hai ngôi làng được công nhận di tích quốc gia là Đường Lâm và Phước Tích, Thừa Thiên - Huế). Theo đó, làng cổ Đường Lâm là nét son văn hóa, là không gian kiến trúc, không gian văn hóa lịch sử tâm linh tiêu biểu, kết tinh nghìn năm của nền văn minh người Việt ở châu thổ Bắc bộ.

Một trong những điểm đáng nói của làng là nhà cửa san sát, đường trong làng theo hình xương cá, dân cư quần tụ sum vầy, mỗi nhà chỉ 200-300m2 đất ở. Diện tích đó là quá nhỏ hẹp với nông thôn.

Vì thế từ đầu những năm 1990, khi nhiều chuyên gia văn hóa lịch sử lên nghiên cứu về Đường Lâm, họ đã cảnh báo cần phải có thiết chế nghiêm túc trong xây dựng, cần có quy chế giãn dân, bảo tồn nhà cổ, kẻo khi được Nhà nước công nhận di tích quốc gia thì làng chỉ còn cái... tên “làng cổ”.

Nhưng suốt hai thập niên qua, phải nói rằng việc cần làm nhất là bảo tồn nhà cổ, đường ngõ cổ, cây cổ thụ, không gian biểu trưng của nền văn minh lúa nước đang có ở Đường Lâm... đã bị bỏ quên. Người dân ồ ạt xây nhà cửa theo hình chóp nhọn, chóp củ hành, nhà ống, nhà kính. Người nơi khác về đầu cơ đất đai ở làng cổ gây nên bao chuyện thị phi.

Quá nhiều bất cập trong quản lý

Một cán bộ văn hóa ở Sơn Tây rất tâm huyết khi trả lời phỏng vấn với chúng tôi: năm 2005 làng cổ Đường Lâm được công nhận di tích quốc gia, đến khoảng năm 2007 quy chế tạm thời về quản lý nhà cổ mới ra đời. Đặc biệt, từ khi ra đời, cán bộ di tích và cán bộ xã cũng chỉ làm mỗi việc là đi nhắc nhở rồi lập biên bản yêu cầu người ta đừng xây nhà cao tầng, hãy xây nhà bằng vật liệu truyền thống. Trong khi để làm được nhà bằng gỗ (vật liệu truyền thống ở làng cổ) thời buổi này chỉ có tỉ phú mới dám đầu tư.

Đặc biệt, sau khi nhắc nhở, lập biên bản, bà con không nghe thì cán bộ cũng đành chịu. Chưa có một vụ cưỡng chế hay phá dỡ công trình vi phạm nào được tiến hành, chưa một giấy phép xây dựng nào được cấp, người dân làm đơn xin xây dựng hay sửa sang, cán bộ không trả lời... họ cũng chỉ biết tự an ủi mình “phải chịu đựng thôi, mình là công dân làng Việt cổ mà”. Bao bức xúc cứ nung nấu cho đến khi xảy ra vụ phá dỡ nhà bà Khanh như vừa qua.

Đến nay, suốt nhiều năm qua chưa có ngôi nhà nào xây mới ở Đường Lâm mà có giấy phép cả. Cán bộ cũng không biết rõ nếu tiến hành cấp phép thì đơn vị nào sẽ đứng ra cho phép?

Người ta đã bàn quá nhiều về việc cần có chính sách giãn dân, cấp đất, cấp tiền cho dân giữ gìn nhà cổ, kiến trúc làng cổ, đồng thời cuộc sống của họ phải dễ chịu hơn; tuy nhiên những “hội thảo” này mới chỉ dừng lại trên bàn giấy.

Có thể nhìn nhận rộng hơn về quá nhiều bất cập ở làng Việt cổ Đường Lâm. Di tích quý của làng “được” trùng tu cẩu thả, đến mức lệch cả hướng đình, lát gạch, lợp ngói, vì kèo sai khiến người dân kêu ca (Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch đã thừa nhận sai sót của đơn vị trùng tu).

Chưa kể nhiều người, chủ yếu đến từ Hà Nội, biến một phần di tích trở thành “nghĩa địa của người thành phố” với các mộ phần giữ và kinh doanh đất “của người âm”. Người dân tự ý treo biển “nhà cổ” rồi tranh giành khách du lịch, nói xấu, khích bác nhau, biến Đường Lâm thành một cái chợ xô bồ. Rất nhiều ngôi nhà cổ bị biến thành nơi nấu cơm thuê cho khách du lịch, rượu bia chè chén đêm ngày...

Đặc biệt đáng sợ là ở đình làng, nóc di tích thiêng liêng, người ta còn treo biển “Quán cơm quê”, ở Xích hậu (một kiến trúc tuyệt đẹp) cũng dựng biển “Có phục vụ WC - vệ sinh”. Nạn chèo kéo khách, ăn xin, bán hàng rong gây xấu mỹ quan và làm rầu lòng du khách về “thái độ ứng xử thị dân” của người làng cổ trong thời đại nhà nhà làm du lịch.

Đó thật sự là nỗi buồn lớn ở di tích quốc gia làng Việt cổ Đường Lâm lâu nay.

Kiến trúc cổ ở Đường Lâm liệu còn bao nhiêu dấu vết? - Ảnh: Diệu Tâm

Đi xuyên làng, không nhận ra làng

Người tâm huyết với làng Việt cổ Đường Lâm đều đau khổ nhận ra làng mình đã bị biến thành một cái làng tân kỳ “kim cổ giao duyên”.

Nhiều du khách gửi xe ngoài cổng làng (hai cái cổng đều bị chặn thu vé, 15.000 đồng/người/lượt vào; xe máy 5.000 đồng/ lượt, ôtô 15.000-20.000 đồng/lượt...), đi bộ xuyên qua làng rồi vẫn hỏi người làng Mông Phụ: “Thưa cụ, cháu hỏi thăm đường đi thăm nhà cổ ở làng cổ Đường Lâm ạ”. Bà con bảo: “Bác đi hết làng tôi rồi mà không trông thấy nhà cổ ư?”.

Điều bị bà con thắc mắc nhiều nhất vẫn là “đường đi” của số lượng tiền không nhỏ có được từ việc thu vé vào làng cổ. Cán bộ ban quản lý di tích làng cổ giải trình với báo chí và người dân rằng: vài trăm triệu đồng doanh thu mỗi năm kia (đã thu được hơn ba năm) chỉ đủ để nuôi bộ máy thu tiền, rồi chi cho hơn chục ngôi nhà cổ mỗi hộ vài trăm ngàn đồng/tháng.

Thu vé du lịch làng cổ chỉ để nuôi người thu vé thế thì lập “trạm thu phí” để làm gì?

NGUYỄN MỸ - DIỆU TÂM

---------------------------------------------

Kỳ sau: Phố cổ... bị treo

Ở cố đô Huế, hai khu phố cổ Gia Hội và Bao Vinh đang trong tình cảnh lụi tàn, phần lớn người dân không muốn làm dân phố cổ vì quá bất tiện...

nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/418919/Kho-vi-lang-co-pho-co---Ky-1 -Lang-co-Duong-Lam-lam-nan.html

Chủ Nhật, 13 tháng 6, 2010

100613- Bảo tồn di sản kiến trúc bằng...nói?

Khi các di tích, di sản được khẩn trương "băm" ra thành các món lợi có thật thì bảo tồn mới dừng ở các khẩu hiệu hô hào suông.

Thiếu Lâm Tự - "mầu mỡ" của thương mại hóa [1]
Có sang Trung Quốc, mới thấy chùa Thiếu Lâm Tự đã trở thành "mầu mỡ" trong xu hướng thương mại hóa. Chùa càng nổi tiếng hơn và thu hút nhiều du khách hơn khi bộ phim Thiếu Lâm Tự có diễn viên tài danh Lý Liên Kiệt tham gia được công chiếu. Những hoạt động này cho thấy chùa không còn giữ được bản sắc và tinh thần võ thuật thuần túy như trước kia.

Giá vé 100 tệ để vào cửa, chùa được hưởng có 40 tệ, còn lại thuộc về Liên doanh giữa chính quyền thành phố Đăng Phong với Cảng Trung Lữ (Tập đoàn du lịch Hồng Kông). Liên doanh này đầu tư 100 triệu tệ (gần 300 tỷ VND), cùng kinh doanh và chia lợi nhuận. Hợp đồng kéo dài 40 năm, bắt đầu chính thức từ 2011.

Có nguồn tin cho hay chính Phương trượng Thích Vĩnh Tín đã ấp ủ ý tưởng này. Là Phương trượng trẻ nhất khi mới 26 tuổi, với học vị thạc sĩ quản trị kinh doanh, Phương trượng sẽ trở thành CEO của chùa Thiếu Lâm. Tuy vậy, ông đã phủ nhận thông tin trên. Chỉ vé vào cửa, khoảng 150 triệu tệ/năm. Dư luận xã hội TQ lại xôn xao hơn khi có tin Thiếu Lâm Tự sắp lên sàn chứng khoán.

Quan chức Tổng cục Thể thao quốc gia TQ khẳng định: "Việc thương mại hóa thể thao giờ đây là một xu hướng không thể tránh khỏi. Chúng ta thấy rằng thương mại hóa chùa Thiếu Lâm và kung-fu Thiếu Lâm sau này sẽ có tác dụng thúc đẩy kung-fu Thiếu Lâm, chẳng hạn như tổ chức Trường đại học Võ thuật".

Từ một di tích gắn liền với lịch sử có thật của nền văn minh vĩ đại, TQ đang muốn khai thác Thiếu Lâm Tự trở thành một dự án kinh doanh có kích thước và mở rộng không ngừng, lấy di tích làm điểm xuất phát. Hay dở thì cũng  là Trung Quốc, còn Việt Nam ta thì sao?

Non thiêng Yên Tử liệu còn "thiêng"? [2]

Non thiêng Yên Tử có nhiều cơ quan quản lý và khai thác. Trên mặt đất,  rừng Yên Tử thuộc Ban quản lý rừng đặc dụng, dưới lòng đất Yên Tử thuộc Công ty than và địa bàn hành chính thuộc xã quản lý.

Đã từng có BQL di tích Yên Tử thuộc UNBN tỉnh, rồi UBND thị xã Uông Bí. Hiện nay bên cạnh BQL lại có Công ty Tùng Lâm - đơn vị trực tiếp khai thác. Công ty đã đầu tư nhiều hạng mục để phục vụ hàng vạn lượt khách mỗi ngày khi chính hội.

Sau mỗi năm các công trình lại được làm thêm để đón nhiều khách hơn. Việc này có hai mặt: Mặt tốt là khách thập phương hành hương thuận tiện đồng nghĩa với đem lại nhiều tỷ đồng tiền vé mỗi ngày. Nhiều hạng mục có mục đích thu lợi, thực hiện rất chủ động với tốc độ nhanh.

Trong khi các cơ quan quản lý từ tỉnh/huyện/ xã và Bộ chủ quản thì phản ứng chậm chạp, bị động, né tránh- vòng vo cuối cùng là thỏa hiệp theo kiểu chỉ đạo lập hồ sơ xin phép các cơ quan chức năng những công trình...đã xây xong.

Nhưng mặt khác, cùng trong vùng non thiêng, những nơi chợ búa, cửa hàng, dịch vụ hứng tiền du khách được dồn dập xây dựng thì những vấn đề như xử lý chất thải, giữ gìn nguồn nước sạch, bảo vệ cây cối, động vật tự nhiên hay lập hồ sơ quy hoạch tổng thể khai thác, công khai nguồn lợi thu về để phục vụ bảo tồn di tích...rất mờ nhạt và bị lờ đi khá kỳ quặc.

Lối đi đang được gia cố, bãi đỗ xe đang mở rộng, trên đỉnh núi ngôi chùa mới đúc bằng đồng lớn hơn xưa rất nhiều và sẽ có bức tượng vô cùng lớn đặt tại nơi thật cao để nhiều người nhìn thấy. Du khách đến ngày một nhiều hơn đồng nghĩa công ty tăng lợi nhuận.

Mỗi năm hành hương về đây, khách thập phương thường nghe thấy tiếng loa nhắc nhở: "Quý khách chú ý, đề phòng kẻ gian trộm cắp móc túi..." phát lên to hơn, tần suất cao hơn. Non thiêng liệu còn thiêng bao lâu nữa?

Bảo tồn di sản bằng... thơ và làm mới đình chùa theo cách nào?

Mấy chục năm nay, chúng ta hô hào bảo tồn phố cổ. BQL phố cổ đã được lập ra. Tuy vậy, cho đến nay BQL phố cổ không có trong tay tư liệu: Đó là mấy trăm tờ bản đồ TL1/200, khổ A0 vẽ những khu phố từ đầu thế kỷ, cập nhật đến năm 1965, mô tả từng bậc thang, bể nước, trụ cổng. BQL phố cổ cũng có vài bức vẽ ghi nhưng không mấy giá trị. Việc bảo tồn kiến trúc dường như chỉ bằng các...bài thơ ngợi ca phố cổ?

Bộ máy BQL chuyển từ TP về quận Hoàn Kiếm quản lý. Riêng các cơ quan, nhà trẻ, trường học, UBND các phường thuộc quận nằm trong khuôn viên các ngôi chùa, đình, hội quán, nhà cổ (vài chục điểm). Mỗi năm, các công trình này được quận đầu tư nâng cấp sửa chữa xây mới "cho phù hợp với mục đích hoạt động" cũng đồng nghĩa các ngôi nhà ngày càng ít cổ hơn.

Hà Nội có ngôi chùa cổ nhất là chùa Trấn Quốc, nay nhiều hạng mục kiến trúc hiện đã bị phá đi làm mới hoàn toàn. Đại diện Cục Di sản văn hoá - Bộ VHTT và DL  cho biết: "Cả nhà chùa và địa phương đều đã đi tìm tư liệu về cổng chùa gốc, nhưng đã không tìm được". Cổng mới to hơn, lối vào mở rộng đổ bê tông chắc chắn. Hai dãy hành lang thành nhà khách khang trang, có những lời khuyên khéo léo vào chùa đừng thắp hương mà nên gửi tiền công đức đóng góp làm mới chùa. Sổ sách ghi chép đàng hoàng nhưng chưa bao giờ thấy ai nói sẽ dành để ai xem...

Cõi thiền thanh cao xa lánh giờ đây đang đổi hướng: Mọi sự kiến thiết cốt để nơi này xích lại, thân mật với chốn trần ai cát bụi hơn.

Báo chí đã công bố bản vẽ ghi chùa từ đầu thế kỷ 20 của Viện Viễn Đông Bác Cổ, ảnh chụp năm 1940, 1958- cái cổng chùa xinh xắn gắn với quy mô ngôi chùa tỷ lệ hoàn chỉnh với không gian cảnh quan...

Nhưng những người tham gia xây mới chùa vẫn không coi là căn cứ, mà dựa vào những lý lẽ vu vơ mẫu vẽ copy nhặt nhạnh đâu đâu..Hầu hết các đình chùa Hà Nội đang có cùng mẫu thiết kế từ cổng ngõ, tường rào đến các chi tiết đầu đao, hổ phù, hoa lá. Thay vì có những biện pháp thiết thực, các đơn vị quản lý ngành văn hoá tìm mọi cách ngụy biện, hợp thức những việc làm mới di tích tràn lan này

Hình ảnh lộn xộn của phố cổ Hà Nội hiện nay
Phố cũ với các công trình công thự, biệt thự được xây dựng trong nửa đầu thế kỷ 20 bằng các tài liệu nghiên cứu quy hoạch bài bản- công phu, thiết kế kiến trúc tài hoa mẫu mực đã trở nên vô giá trị trước những dự án kinh doanh bất động sản đem lại món lợi quyến rũ.

Có muôn nẻo đường, muôn nẻo ngàn lý do để các dự án cao ốc tân tiến thay thế các ngôi nhà mang hơi thở của lịch sử hình thành Hà Nội. Không có thiết chế nào bảo vệ những trang sử thành phố bị xé rách một cách vô cảm. Có vài cuộc thi, những cuộc hội thảo, diễn thuyết lê thê oang oang trong phòng họp đóng kín, dăm ba bài báo bảo vệ di sản ồn ào mấy cũng chỉ là tiếng kêu yếu ớt giữa thinh không vô hạn.

Ngày 20/1/2010, Viện bảo tồn di tích- Bộ Văn hóa TT và DL tổ chức hội thảo chủ đề "Tính liên ngành trong bảo tồn di tích", có đề xuất công tác bảo tồn cần dựa vào cộng đồng. Vấn đề này có thực thi hay không phụ thuộc vào các cơ quan được giao nhiệm vụ bảo tồn của Bộ VH TT và DL.

Việc đầu tiên là các đơn vị này cần công bố toàn bộ hồ sơ hiện trạng di sản phải bảo tồn. Có hay không, thiếu hay đủ, cộng đồng sẽ bổ sung đóng góp. Có hồ sơ, cộng đồng mới so sánh, đánh giá và tham gia tích cực vào công việc giám sát  hoạt động bảo tồn. Nếu mà làm được như vậy, may ra chúng ta mới đảo ngược tình thế hiện trạng: Khi các di tích, di sản được khẩn trương "băm" ra thành các món lợi có thật thì bảo tồn mới dừng ở các khẩu hiệu hô hào suông.

Tác giả: Phạm Quỳnh Hương - Trần Minh Ngọc

Tài liệu tham khảo:

[1] Tư liệu về Thiếu Lâm Tự và Yên Tử trích dẫn bản tham luận "Vai trò, mối quan hệ của xây dựng chính sách trong việc bảo tồn di tích" của nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh Hương- Viện Xã Hội học.

[2]Tư liệu của France Mangin "Di tích lịch sử Hà Nội 1900-1930" và Tạp chí "Xưa và Nay" 6/2009.

nguồn: http://www.tuanvietnam.net/2010-06-11-trang-page-4

Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2010

100523- Đảo Phục Sinh và sự lụn bại của phát triển kinh tế dựa vào việc bóc lột tài nguyên

 
 

Đảo Phục Sinh (Easter Island, còn gọi là Rapa Nui) nằm ở đông nam Thái Bình Dương vốn nổi tiếng về các tác phẩm điêu khắc đá khổng lồ có tên là moai

Đảo Phục Sinh (Easter Island, còn gọi là Rapa Nui) nằm ở đông nam Thái Bình Dương vốn nổi tiếng về các tác phẩm điêu khắc đá khổng lồ có tên là moai. Đây là các pho tượng người với những chiếc đầu khổng lồ so với các phần còn lại của cơ thể. Trong số các pho tượng moai đã hoàn thành và có thể di chuyển được, pho lớn nhất nặng tới 80 tấn. Một pho tượng đang được tạc dở dang còn nặng tới 270 tấn. Các pho tượng moai này được đặt rải rác ở khắp nơi trên đảo – cách xa so với mỏ khai thác đá nơi chúng được chế tác.

Khi mới được phát hiện, các tác phẩm này là một bí ẩn đối với thế giới. Người Âu phát hiện ra Rapa Nui vào khoảng thế kỷ thứ 18, khi đó dân số ước tính trên đảo này chỉ vào khoảng 3000 người. Điều khiến thế giới kinh ngạc là thổ dân ở đây không hề có một nền văn hóa đủ tầm để tạo ra các pho tượng này (họ không có các nghệ sĩ tạc tượng).

Thêm nữa, các pho tượng này đã được di chuyển đi rất xa so với nơi chúng được tạc. Điều này khó hiểu bởi vì với dân số nhỏ như vậy thổ dân không thể di chuyển các pho tượng khổng lồ, ít ra là không thể di chuyển nếu thiếu các công cụ như đòn bẩy, dây kéo và cây lăn. Trong khi đó, trên đảo Rapa Nui hầu như không có cây cối gì, vì thế không thể tạo ra được các công cụ giúp di chuyển các tượng moai. Chính thổ dân bản địa khi đó cũng tin rằng các pho tượng này đã tự mình đi khỏi khu mỏ đá để đến đứng trên các bờ biển.

Gần đây, các nghiên cứu khảo cổ và địa chất đã dần
giải mã được bí ẩn trên đảo Phục Sinh. Theo các khám phá này, đảo Phục Sinh từng được che phủ bởi các cánh rừng cọ dày đặc hồi năm 400 (theo công lịch) khi người Polynesian lần đầu đặt chân lên Rapa Nui.

Ngay sau khi tìm ra đảo này, người Polynesian đã bắt đầu khai thác nguồn tài nguyên quý giá nhất mà hòn đảo này có được – các rừng cọ. Gỗ được dùng để đóng thuyền đánh cá, để làm củi đốt, và chim muông trên đảo là nguồn thức ăn bổ sung ngoài cá. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy trong thời kỳ đầu này, dân số trên đảo tăng rất nhanh do nguồn lương thực phong phú mà các cánh rừng đem lại. Việc kiếm ăn dễ dàng cũng khiến người dân có thời gian cho các hoạt động văn hóa, bao gồm cả điêu khắc và di chuyển các pho tượng moai khổng lồ.

Theo các bằng chứng khảo cổ, phần lớn các tượng moai được tạc trong thời gian từ 1100 và chấm dứt hẳn vào khoảng năm1500 (công lịch). Các cánh rừng cọ đã biến mất vào khoảng năm 1400 (công lịch). Dân số của Rapa Nui đạt mức cao nhất vào khoảng năm 1400 (với số dân xấp xỉ 10,000 người), sau đó giảm dần tới mức chỉ còn khoảng 3000 người vào thế kỷ 18 như đã nói ở trên.

Các nhà khảo cổ còn tìm thấy những bằng chứng về chiến tranh và nạn ăn thịt người trong thế kỷ 16. Đây là các kết quả của các cánh rừng bị đốn trụi, không còn gỗ để đóng thuyền đánh cá, đất nông nghiệp cũng bị xói mòn còn chim muông thì cũng biến mất hết. Nền văn hóa của Rapa Nui đi vào chỗ lụn bại, còn kinh tế thì kiệt quệ trong khi dân số tụt giảm dần do nạn đói và chiến tranh.

Người Polynesian đã phạm phải sai lầm gì? Về nguyên tắc, vì rừng cọ là một nguồn tài nguyên có khả năng tự tái tạo, người Polynesian có thể sống hòa thuận với thiên nhiên mà họ có. Khi dân số tăng nhanh hơn tốc độ tăng của tài nguyên thì lượng tài nguyên thu hoạch được theo đầu người sẽ giảm, dẫn tới tốc độ tăng dân số giảm đi. Điều này lại làm giảm sức ép đối với tài nguyên và tạo cơ hội cho tài nguyên tiếp tục tái tạo. Mối quan hệ cân bằng này, về nguyên tắc, có thể làm cho đảo Phục Sinh duy trì được một quy mô dân số ổn định chứ không đi đến chỗ gần như tuyệt diệt như đã thấy trong lịch sử.

Thêm vào đó, nếu người Polynesian có thể đạt được những tiến bộ công nghệ thì họ sẽ có năng suất sản xuất tăng dần theo thời gian, điều này làm họ bớt lệ thuộc hơn vào tài nguyên. Và vì thế có thể giúp cho nền văn minh của họ phát triển và thịnh vượng.

Thế nhưng rõ ràng là không có tiến bộ khoa học kỹ thuật nào trên đảo Phục Sinh trong suốt hơn một ngàn năm. Bên cạnh đó, các rừng cọ trên đảo Phục Sinh lại thuộc loại cọ Jubea Chilensis – là loại cọ có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trên thế giới. Mỗi cây cọ này cần 40 tới 60 năm để trưởng thành (trong khi các loại cọ khác như Coconut Palm chỉ cần 7 tới 10 năm).

Theo hai kinh tế gia James Brander và Scott Taylor, tốc độ tăng trưởng quá chậm của nguồn tài nguyên tái tạo này (và việc không có tiến bộ công nghệ) đã dẫn tới chỗ các nguồn tài nguyên  không thể điều chỉnh kịp với tốc độ tăng dân số và vì thế đã dẫn tới thảm họa văn minh trên đảo Phục Sinh.

Trường hợp đảo Phục Sinh là một sự thật lịch sử, vì thế nó là một bài học to lớn đối với các nền kinh tế phát triển dựa vào việc bóc lột tài nguyên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên không thể tái tạo.

Những nước nghèo và lạc hậu như Việt Nam buộc phải dựa vào việc bóc lột tài nguyên để tăng trưởng, tuy nhiên VN phải hiểu rằng chúng ta chỉ có duy nhất một cơ hội để làm đúng. Nếu phung phí các nguồn tài nguyên không thể tái tạo vốn rất ít ỏi của dân tộc  trong khi không thể đổi mới cơ cấu kinh tế và nâng cao năng suất lao động thì chúng ta sẽ đánh mất cơ hội duy nhất mà chúng ta có được để phát triển.

Những nhà lãnh đạo quốc gia có trọng trách ra các quyết sách về khai thác tài nguyên cần phải hiểu rằng họ đang gánh vác trách nhiệm lịch sử đối với tương lai lâu dài của cả dân tộc trong mỗi phán quyết của mình

Trần Vinh Dự  

nguồn: http://www1.voanews.com/vietnamese/blogs/du/a-19-2010-

01-08-voa38-82748987.html

Thứ Hai, 17 tháng 5, 2010

100517- Một Hà Nội khác...

 Có một Hà Nội khác âm thầm, lặng lẽ phía sau một Hà Nội ồn ã, nhộp nhịp. Cuộc sống thường nhật đang diễn ra trong những con ngõ nhỏ hun hút của phố cổ ấy là sự trầm lắng của người dân nơi 36 phố phường.

Cuộc sống muôn mặt ấy, phần nào lại là những phong vị không thể thiếu để làm nên một Hà Nội “36 phố phường”, cổ kính.

Không gian chật chội, sự phức tạp trong sinh hoạt, và quanh năm tăm tối ngày như đêm trong mỗi con ngõ... đó là những tất yếu không riêng của thành phố lâu đời và đông dân cư như Hà Nội.

Thời gian làm cho góc những con phố rêu phong, thời gian cũng vô hình gắn kết tình cảm phố phường, con người trở nên sâu nặng. Song, một mặt nào đó chính thời gian lại làm cho chính những con người ấy có thêm âu lo trong những con ngõ nhỏ, phố nhỏ của khu phố cổ.

Dưới đây là chùm ảnh về những góc phố, những ngõ nhỏ từ lâu vốn đã trở thành một nét quen thuộc của người Hà Nội.

Ở phố cổ, con ngõ như thế này cũng là nơi vui chơi của trẻ nhỏ
 
Bảng tin được coi như “người nhắc việc” thường nhật trong ngõ nhỏ.
 
Ngõ 47 phố Hàng Bạc có 10 hộ dân sinh sống...
 
...những sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày đều chung tại khoảng trống nhỏ nhoi của con ngõ.
 
..từ khi con ngõ này bị xảy ra cháy đã làm đảo lộn cuộc sống người dân nơi đây.
 
Những khoảng sáng hiếm hoi thường được dùng để làm nơi phơi phóng.
 
Có những con ngõ được người gắn bó lâu năm cách điệu cổng bằng những lối “kiến trúc tùy hứng”
 
Mỗi con ngõ trong khu phố cổ Hà Nội là một “bảo tàng” về nơi chứa đồ và cảnh sinh hoạt.
 
Ngõ rất nhỏ nhưng không phải ai cũng muốn rời bỏ nó để chuyển đi nơi ở thoáng rộng hơn.
 
Tận dụng bất cứ nơi đâu, nếu có thể.
 
Ánh sáng tự nhiên là điều xa xỉ đối với nhiều con ngõ trên khu phố cổ
 
Thời gian làm cho người dân gắn bó với nơi ở của mình, nhưng thời gian cũng làm cho họ phải thêm lo âu về cuộc sống tạm bợ.

Hữu Nghị

nguồn: http://dantri.com.vn/c20/s20-396255/mot-ha-noi-khac.htm

Chủ Nhật, 2 tháng 5, 2010

100503- Nhà cổ “Người tình” thành di tích quốc gia

 Bảo tàng tỉnh Đồng Tháp vừa tiếp nhận bằng di tích lịch sử cấp quốc gia cho ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê - còn gọi là nhà cổ " Người tình" (ở phường 2, thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp) do Bộ Văn hóa Thông Tin và Du lịch cấp.

Nhà cổ " Người tình" có giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật, kiến trúc nhà ở giai đoạn thế kỷ XIX của Đồng Tháp nói riêng và Nam bộ nói chung. Nhà được xây dựng bằng gỗ vào năm 1895, đến năm 1917 trùng tu lại bằng gạch, vôi, ô dước theo lối kiến trúc Đông – Tây kết hợp.




Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê - nhà cổ "Người tình"

Đây là loại nhà ba gian truyền thống người Việt nhưng trang trí bên trong theo kiểu người Hoa. Toàn bộ ngôi nhà được xây dựng trên diện tích 258 mét vuông, mặt tiền nhà trang trí bằng hoa văn cây cỏ, chim muông tượng trưng cho bốn mùa. Giữa đại sảnh nhà chính thờ Quan Công và trưng bày các loại tủ, giường, bàn thờ cẩn xà cừ tinh xảo.

Trước đây, ngôi nhà vốn là nơi ở của gia đình ông Huỳnh Thủy Lê - người tình đầu tiên của nữ văn sĩ người Pháp Marguerite Duras, tác giả quyển sách nửa tự truyện “L’Amant” (Người tình).


Ông Huỳnh Thủy Lê

Sau khi ông Huỳnh Thủy Lê mất năm 1972, gia đình ông định cư ở nước ngoài, ngôi nhà gần như bỏ hoang. Sau năm 1975, ngôi nhà được Nhà nước sử dụng làm trụ sở làm việc của một đơn vị Công an.

Năm 2007, Công ty Cổ phần Du lịch Đồng Tháp tiếp nhận ngôi nhà và đưa vào khai thác du lịch với tour “Theo dấu chân người tình”. Mỗi ngày trung bình có 1.000 lượt du khách đến tham quan nhà cổ Huỳnh Thủy Lê, trong đó 50% là người Pháp, còn lại là Mỹ, Nhật, Đức , Anh…


Một cảnh trong phim "Người tình" (L'Amant) năm 1992 của đạo diễn người Pháp Jean-Jaques Annaud

B.Vy (Tổng hợp)

Thứ Năm, 21 tháng 1, 2010

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2009

090821- Quản lý đô thị cổ: cần có cái đầu "lạnh"!

(TT&VH) - Vừa qua, Hội KTSVN đã tổ chức nghe giáo sư Michael Turner, người Israel, Phó Chủ tịch Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO thuyết trình về bảo tồn, quản lý di sản, phát triển đô thị. Cụ thể là bảo tồn và phát triển thủ đô Tel Aviv, một thành phố có những nét tương đồng với thủ đô Hà Nội.

Thành phố Tel Aviv tọa lạc bên bờ Địa Trung Hải ở Israel, được đánh giá là thiên đường bên bờ biển. Không những có bãi biển sạch nhất thế giới mà còn được UNESCO công nhận là một bảo tàng ngoài trời về kiến trúc (năm 2003). So với thủ đô Hà Nội có tuổi 1000 năm, thì thủ đô Tel Aviv trẻ hơn 10 lần, đến năm nay mới tròn 100 tuổi (1909-2009).
 
Giáo sư Michael Turner nói chuyện tại Hội KTS VN

Rõ ràng là một thành phố rất trẻ, song người Tel Aviv lại rất trân trọng giữ gìn những thành quả của thế hệ cha anh để lại, biết đánh thức những yếu tố văn hóa lịch sử để hòa đồng với cuộc sống hiện đại, từ đó thúc đẩy cải thiện đời sống người dân.

Cũng như nhiều thành phố khác, sau một thời gian xây dựng phát triển ồ ạt, có phần không quản lý nổi nếu cứ để xây dựng tràn lan. Ngay từ năm 1920, lãnh đạo thành phố đã thấy trước và đặt ra vấn đề cần bảo tồn, cải tạo cũng như mở rộng Thủ đô theo ý tưởng phương Đông kết hợp hòa hợp với phương Tây. Cụ thể là tạo ra một thành phố vườn, thơ mộng, thông thoáng, có không khí trong lành để thu hút khách du lịch.

Công việc đầu tiên là cải tạo các đơn vị ở trước đây đã xây dựng dày đặc, ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân. Giải pháp cải tạo là lấy trường học làm trung tâm, tạo các lõi phố làm không gian mở, trong đó có các không gian trống làm sân vườn, trồng cây xanh, làm nơi sinh hoạt văn hóa, nghỉ ngơi. Hệ thống giao thông chính được tách ra ngoài ô phố để trẻ em đi học, người già nghỉ ngơi an toàn, môi trường sống được cải thiện.
 
Một góc cổ kính của Thủ đô Tel Aviv

Để tạo được không gian trống trong các đơn vị ở, tất nhiên sẽ có những cư dân cần được di dời. Để giải quyết vấn đề này, lãnh đạo thành phố Tel Aviv đã tạo một quỹ đất ở bên ngoài, có giải pháp quy hoạch ưu việt về mọi phương tiện, nên người dân sẵn sàng rời đến nơi ở mới có môi trường và điều kiện sinh hoạt thuận tiện hơn.

Là một đô thị đang sống, cần phải thêm làm gì, hay sẽ không làm gì thêm nữa là điều cần được quan tâm hàng đầu. Các nhà kiến trúc, văn hóa, xã hội tập trung nghiên cứu, điều tra xác định giá trị văn hóa từng công trình, từ đó có cách ứng xử cho thích hợp. Đồng thời phân loại, có giải pháp rất cụ thể công trình nào cần bảo tồn, tu bổ, cải tạo.

Các công trình cần được cải tạo cũng lên phương án cụ thể, cải tạo ở mức nào, theo chiều đứng hay chiều ngang. Không nhất thiết công trình nào cũng bảo tồn nguyên trạng, đôi khi chỉ cần dựa vào cái thần, cái vẻ bên ngoài để cải tạo bên trong đáp ứng với yêu cầu sử dụng hiện đại. Đây là vấn đề toàn cầu, đang được nhiều nước quan tâm. Nếu chỉ vì hình thức bên ngoài mà không đáp ứng yêu cầu sử dụng thì không phù hợp với cuộc sống đương đại.

Cuối cùng ông nói vui, đối với một đô thị cổ thì người quản lý cần phải có cái đầu lạnh để đẩy xa hơn nữa những chủ đầu tư chỉ mong muốn đặt công trình của mình vào trung tâm thành phố, nơi có những công trình cổ.

Những vấn đề GS đưa ra được giới KTSVN đánh giá cao về ý tưởng, giải pháp, tiêu chí bảo tồn và xu hướng phát triển thành phố cổ. Trong những điều ông nói có rất nhiều điều có thể là kinh nghiệm cho Hà Nội và Hà Nội đang cần lắng nghe trong giai đoạn này.

KTS Đoàn Đức Thành