Hiển thị các bài đăng có nhãn nghiêncứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nghiêncứu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2011

111204- Tiền tỉ và những vết thương di sản

Nhiều người cảm thấy an tâm hơn khi dư luận, báo chí gần đây đặc biệt quan tâm đến số phận thăng trầm, đôi lúc thảm thương méo mó của hệ thống di tích Việt Nam trong cơn lốc trùng tu tôn tạo.

Nhiều sai phạm, bất cập bị tố. Không ít lần các đơn vị quản lý, thiết kế, thi công, giám sát, nghiệm thu việc trùng tu tôn tạo, cả chính quyền địa phương cũng như Cục Di sản văn hóa đã thừa nhận sai sót, hứa sẽ đình chỉ các công trình “sửa chữa di tích” có dấu hiệu vi phạm. Nhiều lần ai đó còn nói nhất định sẽ có đơn vị, cá nhân bị phê bình, xử lý nghiêm. Và thế là dư luận lại rụt rè hi vọng: chân lý dẫu đến muộn nhưng có thể sẽ được thực thi. Thật vậy chăng?

May mắn còn lại nguyên vẹn cổng thành tuyệt đẹp này - Ảnh: Thanh Thanh

Kinh phí to, trùng tu méo mó

Năm 2011, Bộ VH-TT&DL đề xuất một con số khổng lồ cho việc tu bổ, tôn tạo di tích: 11.000 tỉ đồng. Người bi quan thì lo cơ sự này, có lẽ đình chùa miếu mạo ở ta còn bị người ta dùng nhiều nghìn tỉ đồng làm mới, làm méo với mức độ ngày càng khủng khiếp. Người lạc quan hơn thì mỏng manh hi vọng: sau những bất cập quá lớn, tai tiếng quá lớn (trong việc đụng đâu hỏng đấy, tiền về chỗ nào là cổ kính rêu phong, lớp lang văn hóa bị bóc mất; tiêu càng nhiều thì “phá” càng dữ dội), biết đâu bây giờ người ta sẽ bài bản và đúng đắn hơn.

Người viết bài này e rằng những người “chuyên nghiệp” tham gia trùng tu tôn tạo di tích, vì bị đả phá quá nhiều, nay biết đâu sẽ “bài bản”, “ném đá dò đường” kỹ hơn trong việc làm mới di tích. Báo chí, những cá nhân tâm huyết có lên tiếng thì bất quá cũng chỉ khiến “tiến độ thi công” ngừng lại ít lâu, rồi di tích cổ vẫn cứ bị phá, bị bóc, bị vôi ve trát trít lại.

Vậy vì sao người ta cứ lăm lăm trùng tu kiểu “phá hoại di tích” mà không ngại gì? Cái lý đơn giản là tiền. Dự án mà chỉ đuổi mối mọt ở cột đình, dọn cỏ rác ở ven thành cổ thôi thì làm sao “hóa giải” được vài trăm triệu tiền ngân sách được cấp về. Chỉ dỡ ra, xây mới... mới có “cơ” dùng hết một vài chục tỉ, có khi cả trăm tỉ cho một công trình. Anh thiết kế, anh thi công, chị giám sát, bác nghiệm thu, rồi người cấp phép và quản lý, ai cũng được “tính” trong khâu giải ngân.

Đó là chuyện xảy ra ở thành cổ Sơn Tây (Hà Nội), di tích quốc gia, tòa thành đá ong diễm lệ và nguyên vẹn nhất Việt Nam. Năm 1994, người ta bỗng nhiên phá đi cái cổng đẹp và cổ kính nhất của thành với hàng cây cổ thụ trùm xòa tuyệt mỹ, xây thế vào đó một cổng thành mới tinh bằng bêtông cốt thép, bên trên treo đèn nhấp nháy. Công luận cực lực lên án khi... sự đã rồi.

12 năm sau (2006), hai cổng còn lại của thành cổ Sơn Tây với cây đề, cây đa, cây si có hệ thống rễ như mãng xà cuồn cuộn ôm trùm những tầng gạch, đá ong cổ... “vô phúc” gặp một dự án trùng tu (gần 50 tỉ) khác đưa về cùng ùn ùn các kíp thợ và kiến trúc sư. Họ lên kế hoạch bằng văn bản, trả lời nhà báo bằng văn bản là sẽ phun hóa chất tiêu diệt “cây dại” trên những cổng thành cổ kính, đưa tòa thành trở về trạng thái khi nó vừa được... khánh thành.

Những dòng tít bức bối trên báo như “Bức tử thành cổ Sơn Tây” cùng lắm cũng chỉ làm “dự án” nọ dừng lại được bốn năm. Cuối đông 2010, người ta lại bỏ nhiều tỉ đồng xin được “xây lại” các bức tường thành cổ dài vài cây số vẫn xanh rì cây cổ thụ và đá ong nâu sậm của di tích quốc gia này. Họ bóc đá cũ, xếp đá mới chất ngất. Báo Tuổi Trẻ lại lên tiếng bằng nhiều tin bài quyết liệt. Lãnh đạo Cục Di sản lên tận hiện trường, bảo đình chỉ thi công. Rồi người ta họp bàn, hội thảo. Cuối cùng thì “thành lũy đá ong mới” vẫn cứ mọc lên theo đúng kiểu “quyết làm xong dự án”, giải ngân một khoản tiền to.

Sau 16 năm, thành cổ Sơn Tây nay tường cao hào sâu mới toe, chỉ còn hai cái cổng cổ nguyên vẹn trong sự giám sát, bảo vệ của bà con Sơn Tây và những người tâm huyết.

Còn nhiều nữa: đình Mông Phụ (di tích quốc gia ở làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây) cũng nhận được hơn 10 tỉ đồng, người ta đem gỗ mới, gạch mới, ngói mới vào, dỡ sạch bách cả đình ra dựng lại, bất chấp bà con kéo lên đình kêu ca. Năm 2010, dăm bảy tỉ đồng ném vào dự án trùng tu thành cổ Tuyên Quang, cổng thành, vòm cây cổ ký ức của bao thế hệ người Tuyên Quang biến mất không chút dấu vết, thay vào đó là “cái lò gạch” vôi vữa trắng toát, đá ong mới tinh, cọc inox xích sắt vây quanh sáng choang.

Hàng chục bài báo, hàng chục chuyên gia nổi tiếng bất bình phát biểu, yêu cầu phá “cái lò gạch”, những mong phục hồi giá trị của di tích quốc gia này, thậm chí yêu cầu khởi tố các vị liên quan đến dự án trùng tu kiểu “tiêu diệt” này. Nhưng bát nước đầy đã đổ, những thành cổ Sơn Tây, đền Và, làng cổ Đường Lâm, đình Thụy Phiêu (ngôi đình cổ nhất Việt Nam)... dù được các chuyên gia, dư luận, báo chí giám sát chặt chẽ, đeo đẳng lên tiếng bảo vệ mười mấy năm còn không giữ được, nữa là “lên tiếng thống thiết” khi ván đã đóng thuyền!

Lại nói về vụ “bức tử đền Và” (ngôi đền có lịch sử nghìn năm, di tích quốc gia thờ Thánh Sơn Tinh ở Hà Nội) mà Tuổi Trẻ đã theo đuổi quyết liệt năm 2009, đích thân phó chủ tịch UBND TP Sơn Tây bấy giờ, ông Nguyễn Lam Điền, nói với Tuổi Trẻ là sẽ “cho dừng dự án”. Một hội đồng chuyên gia được mời lên. Lại bàn, gật gù, rồi trấn an dư luận, trong lúc ấy vẫn âm thầm dỡ nốt đền chính, sửa cổng, đặt thêm sư tử đá kệch cỡm lai căng.

Tuổi Trẻ, trước khi dự án được tiếp tục, đã viết: nếu dùng bốn cái ôtô kéo thì Lầu Chuông, Gác Trống cổ kính và có hồn bậc nhất của đền thiêng cũng không đổ, đừng thành lập hội đồng nói rằng nó hỏng, để dỡ chúng ra bằng được mà làm mới, rằng cần thành lập cơ quan giám sát điều đó. Mặc, đình chỉ thi công rồi người ta tiếp tục hội thảo, bàn bạc, ai bàn ngang thì không mời gật lắc biểu quyết nữa, thế là lại “trùng tu tôn tạo”. Lầu Chuông, Gác Trống bị bóc ra, vôi vữa trát trít.

Cổng phía bắc thành cổ Sơn Tây từng là điểm quyến rũ bậc nhất của tòa thành - bị phá và xây lại năm 1994 - Ảnh: Thanh Thanh

Có ai chịu trách nhiệm gì?

Sau những tai tiếng, đình chỉ, cảnh cáo, hội thảo lại, “nghiêm túc rút kinh nghiệm”... như đã kể ở trên và ở nhiều vụ trùng tu cẩu thả khác là khoảng trống lớn về trách nhiệm. Vài năm trước, sau khi Tuổi Trẻ và một loạt tờ báo lên tiếng về thảm trạng ở các di tích miền Bắc, bấy giờ Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Trần Chiến Thắng dẫn đoàn tùy tùng đi thị sát rất nhiều nơi. Nhiều sai sót được chỉ ra. Nhưng từ bấy đến nay, những ai “bị xử lý” xứng tầm? Câu trả lời là không!

Sai phạm tày trời ở những điểm nóng, tiêu tốn tiền tỉ, hủy hoại giá trị quý báu có một không hai của nhiều di tích mà cả nghìn năm lịch sử dân tộc mới có được, rồi cũng hòa cả làng. Mới nhất là chuyện cơ quan hữu quan lập dự án xin 5 tỉ đồng làm con đường bêtông đuồn đuỗn xuyên thẳng qua vùng lõi di tích quốc gia làng cổ Đường Lâm, Hà Nội (Tuổi Trẻ, tháng 10-2011), vi phạm đủ thứ luật và quy định. Vậy mà ban quản lý trả lời “không hề biết”, Cục Di sản cũng “không biết”. Nay lại tính chuyện bóc bỏ con đường bêtông, một cách gián tiếp quẳng đi 5 tỉ đồng.

Các vị trả lời, từ cục xuống xã, ai cũng có vẻ trách nhiệm và sốt sắng. Nhưng vậy ai đã “vẽ” ra dự án 5 tỉ đồng bất chấp pháp luật ấy, ai ăn lương nhà nước để nhận nhiệm vụ quản lý và giám sát di tích làng cổ Đường Lâm? Chính quyền cơ sở không nhìn thấy từng hiệp thợ đông đúc thi công cả một con đường bêtông rộng tới 5m ở vùng quê vài vạn người ấy? Và 5 tỉ đồng vừa mới ném đi ấy, ai sẽ chịu trách nhiệm?

Ông viện trưởng Viện Bảo tồn di tích (Bộ VH-TT&DL) từng trả lời phỏng vấn dạo nào, nói: xây cái cầu bị hỏng, thất thoát tiền thì từ kiến trúc sư, thợ thuyền, đơn vị quản lý giám sát đều “ăn đòn”. Vậy sao xâm hại một tòa đình, một tòa thành mấy trăm năm tuổi, “ném tiền tỉ qua cửa sổ”... mà chẳng thấy ai gánh chút trách nhiệm nào?

Có thể thấy rõ hơn điều này khi chiêm nghiệm: chưa thấy chuyên gia văn hóa ngành dọc, cán bộ quản lý di tích hay chính quyền cơ sở lên tiếng cảnh báo, phát giác hay đi đầu trong việc bảo vệ di tích đang bị trùng tu sai. Đi đầu bao giờ cũng là dân thôn, các nhà báo, những người say mê văn hóa và du lịch.

“Im lặng là vàng” của những người có trách nhiệm đã đành một lẽ. Đau đớn hơn là sự im lặng buồn bã, cạn kiệt lòng tin của những người từng hết lòng bảo vệ hệ thống di tích trước “thảm họa trùng tu tôn tạo”, đó là nhiều họa sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật, nhà văn hóa và nghệ sĩ, trí thức. Họ đã đợi quá lâu một cơ chế có “bàn tay sắt” được dẫn lối bởi sự hiểu biết, tôn trọng di sản và năng lực nhận lãnh trách nhiệm cụ thể đối với việc trùng tu, tôn tạo.

TRẦN THỊ THANH THANH

----------------------------

Trùng tu di tích cố đô Huế:

Vẫn “mới, trẻ và rẻ hóa”

TTCT - Cố đô Huế là điểm nóng của việc trùng tu di tích, bởi quần thể di tích đã được xếp hạng “đặc biệt của quốc gia” và là “di sản thế giới” này là nơi được tập trung cao nhất kinh phí và nhân lực trùng tu của cả nước. Năm 2003, TTCT từng lên tiếng qua loạt bài về tình trạng “mới hóa, trẻ hóa, rẻ hóa” di tích Huế. Tám năm sau, quay trở lại công trường trùng tu di tích ở đây vẫn thấy tình trạng “mới, trẻ, rẻ” tái diễn.

Minh Ân viện ở lăng vua Đồng Khánh khi còn nguyên vẹn (ảnh chụp vào tháng 5-2003) - Ảnh: Tam Giang
Minh Ân viện sau khi trùng tu - Ảnh: Thái Lộc

Lăng vua Gia Long là một trong những di tích quan trọng nhất của cố đô Huế, với kinh phí trùng tu lên đến gần 70 tỉ đồng. Dự án trùng tu này do Công ty cổ phần Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa trung ương - chi nhánh miền Trung (thuộc Bộ VH-TT&DL) thi công. Công trình trùng tu này đã được Bộ VH-TT&DL và Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế (sau đây gọi tắt là trung tâm) nghiệm thu hoàn tất tháng 9 vừa qua. Ngay sau đó, chúng tôi đến lăng Gia Long, chứng kiến cuộc trùng tu để lại nhiều sai lệch so với nguyên gốc.

Vàng son và vàng chóe

Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế cho biết từ năm 1996-2011, tại khu di tích Huế đã có hơn 100 công trình di tích được trùng tu với tổng kinh phí 570 tỉ đồng. Từ năm 2011-2020 sẽ tiếp tục trùng tu rất nhiều công trình ở khu vực Đại nội và các cụm di tích khác, với kinh phí hơn 2.500 tỉ đồng.

Thật ngỡ ngàng khi bước chân vào khu lăng mộ của vị vua đầu triều Nguyễn, bởi màu rêu phong trầm mặc suốt bao năm qua đã được thay thế bằng một màu vôi mới vàng rực. Trừ bức tường hình vòng cung bao quanh khu vực lăng vua và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu được quét vôi màu xám nhạt, còn lại đều được quét vôi màu vàng.

Theo một nhà nghiên cứu di tích Huế, các lăng vua thường được gọi là “thạch lăng”, tức lăng đá, tượng trưng cho sự trường cửu. Khi xây dựng, chỉ có lăng vua, thềm rồng, bậc cấp và một số mảng nền quan trọng mới lát đá, còn lại thì bằng vữa trộn màu giả đá. Điều này biểu hiện rất rõ trên hiện trạng trước khi trùng tu và nhiều ảnh tư liệu trước đây.

Một hạng mục gây ngỡ ngàng nữa là cổng tam quan của điện Minh Thành, công trình trước khi trùng tu chỉ còn nền móng, nay lợp ngói hoàng lưu ly và sơn son thếp vàng rực rỡ. Năm 1993, khi trùng tu điện Minh Thành sơn son thếp vàng đã có nhiều ý kiến phản đối bởi ngôi điện này vốn không sơn thếp, theo ý của vua Gia Long (ghi rõ trong sách Đại Nam thực lục và nhiều tư liệu khác).

Nhà nghiên cứu Phan Thuận An (nguyên cán bộ nghiên cứu của trung tâm) đưa ra cuốn Trang trí ở An Nam xuất bản tại Paris giữa thập niên 1920, có bức ảnh chụp cổng tam quan năm 1923 với dòng chú thích: “Cửa trước sân của điện thờ hoàng đế Gia Long bằng gỗ chạm trổ sơn màu nâu đỏ”. Nhà nghiên cứu Mai Khắc Ứng, nguyên trưởng phòng nghiên cứu của trung tâm, cho biết thêm: “Màu nâu đỏ do gỗ lim để lâu ngày tạo nên, bởi vì vua Gia Long muốn để gỗ mộc với một dụng ý riêng, có chủ đích”.

Bức tường bên trong Vĩnh Khánh đường (lăng vua Đồng Khánh) trang trí hoa văn (ảnh chụp vào tháng 4-2003) - Ảnh: Tam Giang
Sau khi trùng tu, bức tường đã được sơn phết vôi màu vàng - Ảnh: Thái Lộc

Xây mới lăng vua

Một di tích khác đang được trùng tu với quy mô lớn là lăng vua Đồng Khánh - di tích được đánh giá là “bảo tàng kiến trúc giai đoạn giao thời”. Dự án này cũng do Công ty cổ phần Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa trung ương - chi nhánh miền Trung thiết kế và thi công. Khi chúng tôi đến, đây là cả một công trường xây dựng rộn ràng xe máy, một nhóm công nhân dùng búa, xà beng đập bỏ bức tường gạch dày vẫn còn nguyên vẹn. Cạnh đó là những đoạn tường đã được xây mới hoàn toàn.

Bước qua cổng tam quan (đang hạ giải để trùng tu), thấy hiện ra một không gian hoàn toàn xa lạ. Đó là công trình Minh Ân viện và Công Nghĩa đường nằm hai bên sân vừa được trùng tu xong. Ảnh chụp hiện trạng năm 2008 của chúng tôi và nhiều ảnh tư liệu trước đó đều cho thấy rất rõ mái của hai công trình này được lợp ngói liệt, tương tự điện Ngưng Hy (hiện vẫn còn nguyên, chưa trùng tu), tường tô màu xám, vẽ hình mạch gạch. Nhưng ở công trình mới trùng tu thì lợp ngói âm dương thanh lưu ly, tường quét vôi vàng (màu vàng tương tự ở lăng Gia Long).

Vĩnh Khánh đường nằm nối liền điện Ngưng Hy hình dáng cũng hoàn toàn khác trước. Theo những tài liệu và ảnh chụp hiện trạng trước đây, công trình này vốn mang dáng dấp nửa Âu nửa Á, lợp ngói liệt theo hình thức “chồng diêm” (hai mái nối tiếp), nền lát gạch hoa màu trắng ngà, ở giữa nền gạch hoa trang trí theo hình thức “chiếu hoa”. Tường ngoài thì vẽ theo mạch gạch và tường trong màu trắng ngà trang trí hoa văn khắp các bức tường.

Nhưng công trình sau trùng tu đã khác hoàn toàn: mái lợp ngói âm dương thanh lưu ly, nền lát gạch kiểu Bát Tràng, tường nhà phết màu vôi vàng chóe!

Bức tường thành nguyên vẹn của lăng vua Đồng Khánh bị đập bỏ
Thay vào đó là bức tường xây mới và dùng xe xúc để bới cả nền móng của bức tường cũ - Ảnh: Thái Lộc

Lăng vua Gia Long nguyên gốc (ảnh chụp vào tháng 5-2003) - Ảnh: Tam Giang

Sau trùng tu, các bức tường lăng vua Gia Long được quét vôi vàng chóe - Ảnh: Thái Lộc

Cổng tam quan điện Minh Thành chụp năm 1923 không sơn thếp - Ảnh do nhà nghiên cứu Phan Thuận An cung cấp

Cổng tam quan điện Minh Thành sau trùng tu đã sơn son thếp vàng - Ảnh: Thái Lộc

THÁI LỘC

--------------------------

Trùng tu di tích đang “có vấn đề”!

TTCT - Ông Phùng Phu, giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, trả lời TTCT như vậy về những bất thường trong việc trùng tu di tích Huế.

Điện Ngưng Hy (lăng vua Đồng Khánh) được lợp ngói liệt, theo thiết kế trùng tu sẽ bị thay bằng ngói hoàng lưu ly - Ảnh: Thái Lộc

Ông Phùng Phu nói: “Trong phục hồi di tích (cố đô Huế), chúng tôi dựa trên một nền tảng chung: đó là một phong cách Nguyễn đã được nghiên cứu. Nhưng triều Nguyễn cũng có những trường hợp riêng rất đặc biệt, có những tác động khiến nó thay đổi cả phong cách. Chính vì việc thay đổi đó mà một số nhà nghiên cứu trước đây cho rằng Huế đã đứt mạch truyền thống, đã lai căng, lòe loẹt…

Tuy nhiên tôi thừa nhận sau 30 năm quản lý chuyên môn ở di tích này, cũng có nhiều việc lực bất tòng tâm. Trong đó, có việc chưa áp dụng tốt bảng màu mà các chuyên gia Ba Lan đã nghiên cứu được ở di tích Huế”.

* Xin hỏi về lăng Gia Long, điện Minh Thành và cổng tam quan đều sơn son thếp vàng. Trong khi rất nhiều tư liệu sử, hình ảnh nguyên trạng đều chứng minh không sơn thếp. Vì sao có chuyện này, thưa ông?

Ông Phùng Phu - Ảnh: Thái Lộc
- Khu lăng này đã trải qua nhiều thời kỳ tu bổ, thậm chí có giai đoạn cổng tam quan xây bằng bêtông. Cổng tam quan này vẫn còn bức tranh vẽ màu nước của họa sĩ Nguyễn Thứ, trong đó màu vàng và son thể hiện rất rõ. Tất nhiên, khi nghiệm thu ở khu lăng này, tôi thừa nhận là màu hơi bị sáng. Chúng tôi đã nói với đơn vị thi công là phải tìm cách khắc phục.

* Việc phá bức tường nguyên vẹn để xây lại, thay mái ngói liệt bằng thanh lưu ly… ở lăng Đồng Khánh là xây mới di tích hay trùng tu?

- Những công trình ở các lăng vua ngày xưa các cụ gọi là “nhà xanh nhà vàng”. Điều đó còn lưu lại thông qua các dấu tích trên các lăng và mô tả trong sách sử. Việc triển khai dự án này chúng tôi đã nói rất kỹ trong các cuộc họp của hội đồng khoa học. Nhưng lăng Đồng Khánh thì nói thật lâu rồi tôi chưa lên đó. Tôi sẽ kiểm tra thông tin này để xem kết luận của hội đồng khoa học có được chấp hành và triển khai đúng theo yêu cầu hay không.

* Mới đây ông có ý kiến không hài lòng về chất lượng giám sát kém ở dự án trùng tu lăng Gia Long, cụ thể thế nào thưa ông?

- Tôi khẳng định cho đến bây giờ hoàn toàn chưa yên tâm về năng lực cán bộ kỹ thuật, năng lực giám sát (công trình trùng tu - PV). Nhiều khi anh em phối hợp chưa tốt và cũng chưa tiếp cận tốt với khoa học, công nghệ cho nên dễ dãi. Nhiều anh em làm theo kiểu xây dựng cơ bản.

* Như vậy, chất lượng trùng tu theo ông là đang có vấn đề?

- Đang có vấn đề chứ sao lại không! Tôi nói (việc trùng tu di tích - PV) cả nước Việt Nam đang có vấn đề, từ cán bộ quản lý cho đến cán bộ thực thi dự án, cán bộ giám sát dự án và các đơn vị thi công hoàn toàn có vấn đề. Di sản chúng ta thì đồ sộ, rất nhiều loại hình, rất phong phú, nhưng chuyên gia kém hoặc chưa có chuyên gia. Có nhiều chuyên gia về lý thuyết, nhưng về kỹ năng thực hành thì rất thiếu.

TTCT

nguồn: http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/467759/Tien-ti-va-nhung-vet-thuong-di-san.html

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

111112- Nói sự thật không sợ mất lòng, mà có thể giải quyết bất đồng

Sau bảy mươi năm là nhà nghiên cứu độc lập, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu có được một gia tài tri thức có người ví với một viện nghiên cứu: hơn 3.000 tấm bản đồ cổ giá trị, 30 cuốn sách viết riêng và 40 cuốn viết chung. Ông nghiên cứu bốn lĩnh vực chính: địa bạ, địa chí, bản đồ, hoạt động công nghiệp cổ truyền Việt Nam. Đã nhận nhiều giải thưởng cao quý như Giải thưởng Trần Văn Giàu năm 2005, Giải thưởng Phan Chu Trinh năm 2008. Thành tựu của ông có thể ghi vào sách kỷ lục Việt Nam. Nhiều nghiên cứu của cụ là bằng chứng khoa học cho việc bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Tiếp chúng tôi trong nhà riêng là một cụ ông nhanh nhẹn và minh mẫn hơn nhiều so với tuổi.

Năm nay bước vào tuổi 92, ông còn tiếp tục công trình nghiên cứu nào nữa không?

Phải chốt lại chuyện nghiên cứu lịch sử Biển Đông, Hoàng Sa - Trường Sa. Nội dung này nằm trong nghiên cứu chung của tôi, nhưng là vấn đề thời sự, cần phải nghiên cứu sâu. Thật may mắn, không hiểu sao mà mình lại có được những tư liệu đến thế…

Sao lại không hiểu được! Đơn giản là vì ông đã lao động suốt cả một đời…

Nói thì đơn giản thế, nhưng rất phức tạp, phải bỏ ra nhiều công sức, nhiều thời gian và cả tài chính nữa. Tôi cảm thấy may mắn khi bước qua tuổi 90 rồi mà vẫn còn được phục vụ đất nước. Bây giờ đâm lao phải theo lao, phải giữ sức khỏe làm những việc đó. Trước đây, tôi nghiên cứu tổng quát lịch sử xã hội - dân tộc Việt Nam, rất cẩn thận, từng phần ruộng đất, sưu tập địa bạ của 200 năm nay, những tư liệu viết bằng chữ Hán, để biết đất nước biến chuyển như thế nào về đất đai. Nghiên cứu đất, tức là liên quan đến con người sống trên đó, thành ra là nghiên cứu lịch sử, địa lý. Phải có phần chứng minh, chính là các bản đồ người nước ngoài vẽ về đất nước mình, cả xưa và nay. Sưu tập bản đồ sẽ hiểu lịch sử tương đối chính xác hơn. Tôi không là người đam mê sưu tầm như cụ Vương Hồng Sển, mà sưu tầm những thứ liên quan đến nghiên cứu và nghiên cứu giải mã những tư liệu ấy.

Ông đã góp phần chứng minh sự thật về Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như thế nào?

Đó là một công trình lớn, không riêng mình tôi có thể làm được. Có những người chuyên gia về luật pháp, lịch sử, chuyên về chữ Hán nghiên cứu, như các chuyên gia Nguyễn Nhã, Hoàng Việt, Phạm Quốc Quân… Phần của tôi nghiêng về tổng hợp một chút. Tư liệu, bản đồ, lịch sử của các nước, kể cả của tác giả Trung Quốc, phương Tây thế kỷ XVI-XIX đều xác nhận Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, không một ai nói rằng của Trung Quốc cả.

Trên mạng, có một số người nói, việc Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam, điều đó dứt khoát rõ ràng rồi, không có gì phải bàn cãi lôi thôi. Ông có nghe về những ý kiến đó không?

Có đấy, họ còn nói rằng “Cụ Đầu khỏi phải chứng minh rắc rối. Ai cũng biết Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam”. Nhưng tôi nghĩ mình phải đưa ra ánh sáng những chứng minh khoa học, đó là bổn phận. Các cơ quan báo chí, truyền thông cũng tới chỗ tôi, liên hệ để xin tư liệu, công bố với công chúng. Những tư liệu quan trọng, báo Nhân dân đã đăng hai trang lớn. Nhưng vấn đề này rất lớn và nhiều cách trình bày, không chỉ một vài bài báo là xong. Đó là một vấn đề khoa học, thời sự của quốc tế và của nước ta.

Theo ông, những tư liệu nào được cho là quý hiếm nhất?

Rất nhiều tư liệu cổ xưa tôi đoán là ngay cả các viện nghiên cứu cũng chưa chắc có, nên Nhà nước và hai Bộ (Ngoại giao và Công an) mới liên hệ với tôi. Nhưng tôi không như người sưu tầm cho rằng cái này quý, cái kia quý. Tôi là nhà nghiên cứu, giải mã, đọc được những tư liệu, bản đồ bằng nhiều thứ tiếng, trong nhiều giai đoạn khác nhau, để tìm ra nguồn gốc từ đâu mà có những tên gọi đó.

Ông có cách nào cho nhiều người hiểu một cách chân thực những sự thật mà mình đã dành cả đời để chứng minh hay không? Đặc biệt khi đó là một chuyện quan trọng của đất nước?

Tôi rất muốn điều đó. Nhiều người hiểu chung chung, rằng Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam, nhưng tôi có thể góp phần chứng minh được. Tôi từng gặp nhiều trí thức, nhà văn, nhà báo, giáo viên… và nhận thấy rằng họ không nắm được các chi tiết cụ thể của vấn đề. Như vậy là phiến diện. Ai cũng kêu là năm nào thi cử, điểm môn lịch sử cũng kém nhất. Tôi nghĩ rằng những gì về đất nước mình, lịch sử, địa lý, văn hóa, đời sống xã hội Việt Nam, đã không được trình bày một cách tổng quát, đầy đủ trong chương trình giáo khoa mười hai năm. Cả thầy lẫn trò đều ít quan tâm đến vấn đề lịch sử. Chúng ta muốn người dân quan tâm đến điều gì thì phải phổ biến rộng rãi kiến thức cho họ.

Nhưng thưa ông, có nhiều nghiên cứu khá khó hiểu, toàn là tư liệu, ký hiệu, ngôn ngữ cổ, đâu phải dễ nắm…
Những điều chị cho rằng khó, tôi cho là dễ. Người không quan tâm thì bao giờ cũng cho là khó cả.

Vậy xin ông cho vài câu dễ hiểu, dễ thuộc để trang bị cho một người rất bình thường như tôi có thể hiểu được.

Nếu thế, tôi chỉ cần đưa cho chị xem vài tấm bản đồ do người Trung Hoa xưa vẽ, một vài tấm do người Việt Nam vẽ, và vài bản đồ do người phương Tây vẽ về Biển Đông, Hoàng Sa - Trường Sa. Thế thôi. Cho người ta thấy rằng từ xưa, người Việt Nam chịu trách nhiệm ở Biển Đông cả về phương diện an ninh lẫn xã hội. Hằng năm gió mùa Đông - Tây, thuyền bè gặp nạn trôi dạt vào. Triều đình Việt Nam thời xưa đã giúp những người trôi dạt vào Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ Biển Đông từ xa xưa.

Như vậy, chỉ riêng bản đồ đã nói được khá nhiều và khá dễ, phải không thưa ông?

Chúng ta ngồi ở đây, bên cạnh một ngã tư, tôi mời chị nhìn xuống xem những người nước ngoài đang đi qua cửa. Họ đều cầm bản đồ, tìm đường đi, phải không? Việt Nam có bao nhiêu thành phố có bản đồ?

Thưa ông, bây giờ, phục vụ cho du lịch, nhiều nơi cũng có bản đồ rồi.

Nghĩa là vẫn để phục vụ du khách là chính. Người Việt rất ít sử dụng bản đồ.

Họ theo thói quen: đường ở miệng...

Sách giáo khoa cũng rất ít bản đồ. Trên báo chí cũng vậy. Có sự kiện mới xảy ra ở một xứ lạ, xưa nay ít biết, phải có bản đồ hướng dẫn cho người đọc biết, chẳng hạn nước Libya nằm ở đâu. Chúng ta phải góp phần xây dựng thói quen văn minh, khoa học. Nước mình ít dùng, cho đến giờ việc thực hiện thói quen ấy rất khó khăn. Tôi rất muốn phổ biến những tấm bản đồ.

Đơn giản vậy mà không có cách nào sao?

Phải là chính sách của những người làm văn hóa. Chính phủ phải quan tâm, ngành giáo dục phải quan tâm, các nhà báo phải quan tâm.

Sao phải chờ những thứ to tát, khó khăn ấy? Chúng ta cứ thử in cuốn bản đồ nhỏ cầm tay, để bất cứ ai cũng có thể chứng minh những vấn đề chủ quyền biển đảo một cách dễ dàng, đầy tính thuyết phục khoa học?

Nói kinh nghiệm nhé: Tôi có lần làm rồi và lỗ vốn. Ít ai quan tâm! Hồi kỷ niệm Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh 300 năm, tôi là người đầu tiên cung cấp bản đồ về lịch sử biến chuyển vùng đất của Sài Gòn 300 năm, nhưng không bán được. Dường như người ta chỉ quan tâm đến những vấn đề trước mắt. Lĩnh vực lịch sử chúng ta cũng chỉ đầu tư nghiên cứu về chiến tranh chống Pháp, Mỹ, thời kỳ bảo vệ đất nước hơn là về thời kỳ dựng nước. Thí dụ triều Nguyễn rất có công xây dựng đất nước, nhưng chưa được ghi nhận tương xứng. Có lẽ vì vấn đề gần chúng ta hơn cả là công cuộc bảo vệ đất nước, nên người ta cứ tập trung vào. Nói không khéo sẽ quên mất lịch sử xây dựng đất nước, chỉ thấy công bảo vệ mà thôi. Trình bày nhầm như vậy, không thấm vào tâm hồn người Việt Nam một cách đầy đủ nên càng ngày lịch sử càng bị lơ là. Cuối đời rồi, tôi thấy có những chuyện quan trọng không thể lơ là được, như chuyện phải tranh đấu cho Hoàng Sa - Trường Sa.

Ông có hài lòng về những gì vừa qua ông đã đóng góp cho đất nước thông qua những công trình nghiên cứu của mình hay chưa? Ông muốn được mọi người hưởng ứng như thế nào?

Theo tôi thấy, các vị lãnh đạo thì nghĩ đường lối lớn, báo chí thì tích cực trong khả năng tuyên truyền của mình, phải làm cho sự hiểu biết trong công chúng rộng rãi hơn nữa. Tôi muốn hỏi tại sao nhiều nhà văn như chị lại ít nói đến vấn đề này?

Thú thật với ông là giới văn chương, theo tôi thiết nghĩ, có lẽ chưa hiểu biết nhiều lĩnh vực, sợ nói không thấu đáo những việc nhạy cảm thì hiệu quả không cao. Họ mới chỉ biểu lộ lòng nhiệt thành yêu nước. Muốn chuyển hóa thành hình tượng văn học thường phải có thời gian…

Phải tìm hiểu, lặng im là không được. Phải làm cho giới trẻ hiểu biết, chứ tự nhiên không ai hiểu biết ngay được. Nếu muốn có sự hiểu biết một cách khoa học thì phải phổ biến rộng khắp chứ tại sao lại không làm? Phải thật thà, trung thực. Nói sự thật không thể mất lòng ai…

Thưa ông, người ta vẫn sợ có câu “sự thật mất lòng”…

Sự thật chỉ có thể giải quyết được bất đồng. Không sợ mất lòng.

Nghe nói ông đang tìm người để kế tục sự nghiệp. Ông đã tìm được chưa?

Có nhiều người hỏi, nhiều cơ quan đến tiếp xúc với tôi. Tôi đã bắt đầu giao một phần tư liệu cho Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, kể cả việc sao chụp bản đồ. Nhưng như tôi đã nói, tôi không phải là nhà sưu tầm, không cần nơi bảo quản những đồ sưu tầm, mà là nhà nghiên cứu. Nên tôi cần tìm người tiếp tục việc nghiên cứu những tư liệu của tôi còn nghiên cứu dở dang. Cho đến nay, chỉ thấy những người muốn gìn giữ tư liệu ấy, chưa thấy một ai tha thiết chuyện nghiên cứu. Nghĩa là tôi vẫn chưa tìm được người kế nghiệp mình.

Theo tôi được biết có rất nhiều người theo các ngành học liên quan mà, thưa ông?

Đúng là tôi có tiếp xúc nhiều người làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ nhờ tôi giúp đỡ tư liệu, cho ý kiến, nhưng xong là thôi, họ không tiếp tục nghiên cứu nữa. Tôi chưa tìm được ai. Hơi buồn một chút.

Khó thật vậy sao?

Khó. Có lẽ vì họ không thấy mối lợi kinh tế nào trước mắt.

Nhưng còn các viện nghiên cứu khoa học về xã hội, lịch sử? Đó là những nội dung công việc của họ mà?

Không có nhiều sự quan tâm từ các đơn vị này. Chắc chị biết có Hội Sử học, có nhiều người giỏi chuyên môn. Các trường đại học cũng có khoa chuyên môn, ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Huế đều có cả. Tôi cũng biết có giáo sư nghiên cứu những vấn đề tôi và chị đang nói với nhau đây. Thực tế, trên mạng, ở các tòa soạn báo, các Viện nghiên cứu Khoa học xã hội, Viện Sử, Viện Địa lý, Hội Lịch sử Việt Nam… đều nghiên cứu, nhưng có lẽ đều thiếu mảng tư liệu và nghiên cứu như tôi. Tôi thiết nghĩ vì vậy Nhà nước mới gọi đến tôi. Tôi nhận định vậy thôi, chị muốn thì thử tìm hiểu thêm.

Thưa ông, làm một nhà nghiên cứu độc lập suốt cả đời, ngoài chuyện tiền bạc tốn kém mà lại khó kiếm tiền, thì khó khăn nhất ông phải trải qua là gì?

Thứ nhất là cái ham mê chân lý phải vượt lên trên hết. Ham mê sự thật, ham mê hiểu biết. Buổi ban đầu, tôi đâu biết nhiều vấn đề, đâu có nhiều tài liệu. Bản đồ một vài cái chứng minh. Đồ cổ để biết thời xưa ăn uống thế nào. Lịch sử cũng chỉ là đọc qua những quyển sách bình thường ai cũng có. Sau vì ham mê, nên tôi đi tìm kiếm tư liệu khắp trong nước, chợ trời. Số đồ gốm, bản đồ tăng lên. Chi tiêu cho cuộc sống phải tiết kiệm, giản dị, dành phần cho tư liệu và nghiên cứu. Dần dần mới thành nhà nghiên cứu lúc nào không biết.

Nay có thể “xếp hạng” ông là nhà nghiên cứu tầm cỡ…

Không cỡ gì. Nhưng tôi tự biết mình không mặc cảm khi thảo luận và tiếp xúc với giới nghiên cứu các nước. Tôi có dịp làm nhà khoa học nho nhỏ tiếp xúc với các nhà khoa học thế giới - Nhật, Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Anh, Úc…, để thảo luận các vấn đề và tư liệu mình có giá trị đáng chú ý. Tôi là một nhà nghiên cứu tay ngang, vẫn khiêm tốn rằng còn nhiều điều mình chưa biết, nhưng vẫn trao đổi được với những nhà nghiên cứu có chuyên môn sâu về lịch sử, địa lý Việt Nam và nước ngoài.

Giới nghiên cứu nước ngoài có người từng phát biểu là họ đi khắp nơi, chưa gặp ai như ông. Câu chuyện thế nào, thưa ông?

Họ nói quá đáng chăng! Năm ngoái có hai nhà khoa học có tiếng, chuyên về bản đồ của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, đến thăm tôi. Chúng tôi cùng thảo luận các vấn đề bản đồ lịch sử Việt Nam xưa và nay. Hai người đó đi Huế, Hà Nội, qua Lào, Campuchia, rồi quay lại lần thứ hai. Và họ nói câu chị vừa nhắc...

Trong cuộc đời nghiên cứu của mình, hẳn ông phải gặp những tình huống khó khăn?

Có những thời kỳ, tôi gặp phải sự không hiểu của chính quyền sở tại. Họ đi hỏi dò người quen biết, hỏi nhà báo, rằng một tấm bản đồ dùng để làm gì, có hại cho an ninh hay không, tôi lấy ở đâu ra những bản đồ đó... Rồi không biết họ lấy tin từ đâu rằng ông Đầu bán bản đồ cho nước ngoài tới hai triệu đô. Với các nhà khoa học độc lập, không thuộc một cơ quan nào như tôi, những chuyện như vậy rất đáng ngại. Nếu không có một bề dày suốt đời tha thiết với dân tộc, nhiều người sẽ buông xuôi. May mà tôi sống lâu đến lúc được hiểu, được đóng góp cho đất nước. Chứ nếu chẳng may qua đời trước, thì tư liệu, giấy tờ, sự hiểu biết tìm tòi của một người công dân đổ xuống sông hết. May mắn nữa là ba năm trở lại đây, Nhà nước chính thức biết đến công trình của tôi. Tôi sẵn sàng đóng góp.

Thế còn niềm sung sướng nhất của một nhà nghiên cứu?

Là góp phần tìm hiểu chân lý, được hiểu chân lý, sự thật. Và được nói lên những sự thật ấy. Thí dụ như đang được nói những chuyện đó với chị đây này. Tôi lại có hạnh phúc nữa là, nhiều anh bạn tôi, mới tám mươi trí khôn đã hơi lẫn, còn tôi, không hiểu tôi nói chuyện với chị nãy giờ hơn hai tiếng đồng hồ, chị có thấy tôi có gì lẫn không? Đó là hạnh phúc trời cho.

Cũng có công rèn luyện nữa chứ?

Có nhiều người hỏi tôi có bí thuật gì không, tôi nói rằng chỉ giữ sức khỏe một cách bình thường, giống như công việc nghiên cứu, không ngày nào không quan tâm. Sống đơn giản. Sáng ăn bánh mì, cà phê nhiều sữa, hai bữa bình thường, thích mắm, gu hơi nặng.

Ông có gặp phải bệnh tật nào đáng lo chưa?

Bệnh đặc biệt như mổ xẻ thì không có. Thỉnh thoảng đang ngồi nói chuyện bị té vì máu lên não không kịp. Có lẽ là một dạng của bệnh tim mạch.

Nếu ông chưa mệt, xin hỏi thêm ít câu cuối: Vì sao ông không viết hồi ký cuộc đời một nhà nghiên cứu độc lập?
Tôi mê hội họa và đọc sách, đặc biệt là tự truyện như của Washington, Gandhi, Churchill, cụ Hồ, các nhà văn và chính khách lớn. Bởi chúng thực. Từ bé, tôi đã nghĩ hai hướng trong một người sống đời tích cực: một là những người chuẩn bị để làm nhà lãnh đạo trong mọi lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, hai là chuẩn bị thành người tích cực sống ở cơ sở - militant de base. Lựa chọn của tôi là chiến sĩ ở cơ sở. Từ bé, được tiếp xúc với môi trường xã hội văn hóa tôn giáo rất phong phú, tiếp xúc các nhân vật bên này bên kia, tôi vẫn giữ được ý nguyện làm con người cơ sở. Những việc nghiên cứu địa bạ, bản đồ, sách cổ, gốm… là cơ sở. Không có hướng viết tự truyện, nhưng không có nghĩa là không viết ra những sự kiện, con người mà tôi được tham gia, tiếp xúc.

Những người có cuộc đời hay như ông, không viết ra, mai này đem về với tổ tiên, vậy là có “khuyết điểm”. Ông có công nhận như vậy không?

Cũng có nhà văn đề nghị được nghe chuyện tôi kể để viết, nhưng tôi xin cảm ơn. Thỉnh thoảng tôi có viết lại một vài điều mình chứng kiến cho dễ hiểu, cho sáng sủa, không phải tiểu sử mình, chắc chị có đọc?

Vâng, thưa có. Xin cảm ơn ông đã dành cho một cuộc trò chuyện dài…

Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần.

nguồn: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-11-12-noi-su-that-khong-so-mat-long-ma-co-the-giai-quyet-bat-dong