Hiển thị các bài đăng có nhãn cơchế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cơchế. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2009

090812- Danh hiệu UNESCO và những chuyện ngược đời ở Việt Nam

UNESCO khuyến cáo: nếu quy mô Nhà Quốc hội sắp xây dựng quá lớn, kiểu dáng kiến trúc không phù hợp với cảnh quan xung quanh, thì khu di tích trung tâm Hoàng thành sẽ ít cơ hội được công nhận là di sản văn hoá thế giới.Mô tả ảnh.

Hang Sơn Động (Phong Nha - Kẻ Bàng) 

Chưa mặn mà với danh hiệu của UNESCO

11/8/2009, Hội nghị toàn quốc các Khu Dự trữ sinh quyển và Di sản Thế giới của Việt Nam năm 2009 do Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và tỉnh Quảng Bình tổ chức, là dịp gặp nhau thường niên của các tỉnh thành đang "sở hữu" các di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, các khu dự trữ sinh quyển và các tỉnh thành đang quan tâm tìm hiểu việc "ghi danh" cho địa phương mình.

Trong hệ thống danh hiệu UNESCO, danh giá nhất là các di sản thế giới, nhưng còn các danh hiệu khác cũng "có giá" như Khu dự trữ sinh quyển thế giới, Công viên địa chất, Ký ức thế giới... nhưng chúng ta chưa biết tận dụng để nâng tầm hình ảnh đất nước trên trường quốc tế.

Ví dụ, ta mới có Mộc bản triều Nguyễn được công nhận là "Ký ức thế giới" trong khi thế giới đã có đến 193 di sản được công nhận từ năm 1997 đến nay.

2 khu dự trữ sinh quyển được công nhận trong năm nay là Cù Lao Chàm (Quảng Nam) và Mũi Cà Mau, giúp Việt Nam có 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới, nhưng 2 trong số 8 danh hiệu này vẫn còn đang "tồn kho" (trong đó có vườn quốc gia Pù Mát - Nghệ An) vì địa phương chưa sẵn sàng đón nhận. Chẳng thế mà Uỷ ban Quốc gia UNESCO đã phải nhắc nhở các tỉnh thành đã có di sản được công nhận: cần bảo tồn và phát huy thương hiệu di sản chứ đừng "để đó" làm vì. Theo số liệu mà ông Phạm Sanh Châu, Tổng Thư ký Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, thì: UNESCO là một thương hiệu lớn trị giá 500 triệu đô la Mỹ, mỗi di sản thế giới sẽ thu hút lượng khách trung bình là 1 tỷ người.

Ở ta mới có chuyện ngược đời như thế

Ông Nguyễn Hoàng Trí (Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia Con người và Sinh quyển Việt Nam) cũng kêu gọi các địa phương đăng ký càng nhiều càng tốt các danh hiệu UNESCO cho địa phương mình, bởi càng nhiều danh hiệu càng giúp tăng niềm tự hào và nhận thức giá trị của dân bản địa với di sản, dẫn đến những ứng xử đúng đắn. Chưa kể, càng nhiều danh hiệu sẽ dẫn đến càng nhiều cơ hội đầu tư cho bảo tồn và phát triển, càng góp phần tăng thương hiệu của địa phương không chỉ trong nước mà cả với bạn bè quốc tế.

Nhưng ở ta, dường như hơi ngược đời khi phần lớn các di sản được công nhận đều không do sự chủ động đề cao giá trị của các địa phương. Phải nhờ Ủy ban Quốc gia Con người và Sinh quyển Việt Nam mới có 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới, cũng như Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản tha thiết mong có một quy hoạch địa chất tổng thể cho toàn quốc, bởi quá nhiều vùng xứng đáng được đề cử vào danh sách "công viên địa chất thế giới", trong khi ta rục rịch làm hồ sơ đầu tiên cho Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) mấy năm nay vẫn chưa xong.

Theo TS Trần Tân Văn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, mạng lưới công viên địa chất toàn cầu mới thành lập năm 2004 (năm 2000 ra đời mạng lưới công viên địa chất châu Âu), hiện mới có 18 quốc gia sở hữu 58 công viên địa chất (trong đó riêng Trung Quốc đã có 20 công viên địa chất).

Với kế hoạch công nhận 500 công viên địa chất toàn cầu trong 20 năm, Việt Nam sẽ có cơ hội lớn để tham gia ngay từ những ngày đầu vào mạng lưới này, những địa danh đã có danh hiệu di sản, khu dự trữ sinh quyển thì việc tiếp tục đăng ký công viên địa chất sẽ dễ dàng hơn.

Ưu tiên số một là Hoàng thành Thăng Long

Xem danh sách 2 hồ sơ khởi động khá muộn nên đang "chạy nước rút" hết tốc lực để kịp hoàn thành trước thời hạn 31/8 năm nay [lễ hội Gióng cho di sản văn hóa đại diện và Bia Văn Miếu cho "Ký ức thế giới"], dễ nhận thấy Hà Nội đang được "ưu tiên" để có di sản được công nhận đúng dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.

Có khá nhiều đề cử cho cả 3 loại hình (Di sản văn hoá thế giới, Khu dự trữ sinh quyển thế giới và Ký ức thế giới) nhưng ai cũng hiểu mục tiêu số một của chúng ta là Hoàng thành Thăng Long "thắng", được công nhận danh hiệu Di sản văn hóa thế giới.

Khó khăn lớn nhất với Hoàng thành hiện nay thể hiện ở khuyến cáo của UNESCO, rằng nếu quy mô Nhà Quốc hội sắp xây dựng quá lớn, kiểu dáng kiến trúc không phù hợp với cảnh quan xung quanh, thì khu di tích trung tâm Hoàng thành ở sát cạnh bên sẽ ít cơ hội để sở hữu danh hiệu di sản văn hóa thế giới danh giá cho thủ đô Hà Nội.

Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam thể hiện rõ mong muốn thúc đẩy "ráo riết" việc đề cử thêm nhiều di sản mới cho Việt Nam. Ông Phạm Sanh Châu (Tổng Thư ký UBQG UNESCO Việt Nam) kêu gọi các địa phương chủ động đề nghị "giá trị" của tỉnh mình, và "bật mí" với các tỉnh việc UNESCO đang khuyến khích các khu dự trữ sinh quyển biển đủ điều kiện làm hồ sơ đăng ký di sản thiên nhiên thế giới.

Theo ông, nhiều "ứng cử viên" được đánh giá cao nhưng lại chưa có cơ hội để đăng ký, bởi dù nằm trên địa bàn một tỉnh, nhưng lại do Chính phủ trực tiếp quản lý, như trường hợp Vườn Quốc gia Bạch Mã, hay chuyện chưa có một cơ quan quản lý nhà nước chung cho các Khu dự trữ sinh quyển thế giới để lập chương trình quảng bá chung cho thương hiệu này tại Việt Nam.

Những hồ sơ đề cử di sản thiên nhiên thế giới đã bị thất bại cũng được mang ra mổ xẻ để rút kinh nghiệm, như hồ sơ của vườn quốc gia Ba Bể không chứng minh được tính độc nhất nên "trượt", hồ sơ vườn quốc gia Cát Tiên cũng không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nên bị loại ngay từ vòng 1 tại hội nghị Sevilla (Tây Ba Nha) vừa qua.

Nhiều địa danh chúng ta muốn làm chỉ vì "cảm tính", nhưng xét theo tiêu chí của UNESCO thì còn thiếu tính khoa học quốc tế. Vậy nên ta cứ nghe loáng thoáng việc sẽ đề cử di sản này di sản khác, nhưng rất nhiều trong số đó rơi vào "hư không", nhiều hồ sơ khác bị làm vội vàng, cập rập. Có lẽ, cần một cuộc "kiểm kê" di sản hệ thống trên toàn quốc, để các tỉnh thành hiểu hơn về thế mạnh của bản thân, mới mong có chiến lược lâu dài và toàn diện trong việc ghi danh Việt Nam trên "bản đồ" danh hiệu UNESCO của thế giới.

Khánh Linh

nguồn: http://www.vietnamnet.vn/vanhoa/2009/08/863158/

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2008

081124- Kinh đô Văn Lang cổ: SOS!

Làng Cả là DTLS thuộc thời kì văn hóa Đông Sơn, nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Truyền thuyết và sử liệu khoa học đều chứng minh Làng Cả chính là kinh đô của nước Văn Lang xưa. Nhưng trước sự tàn phá ghê gớm của con người, Làng Cả như…một bãi đất hoang.

Hiện thực và truyền thuyết

Bến đò Chiểu Dương thuộc khu vực Làng Cả, phường Thọ Sơn, TP Việt Trì, 4h30 phút sáng trời mùa thu se lạnh! Chuyến đò đầu tiên cành cạch xé màn sương thu đưa các bà, các chị từ bên kia dãy núi Tam Đảo (huyện Ba Vì, Hà Tây cũ), gồng gánh những thứ rau, quả vượt sông Hồng mang sang thành phố Việt Trì bán.

Những tiếng gọi nhau í ới từ dưới mạn đò, những gánh hàng nặng trĩu trên đôi quang gánh cong hình cầu vồng, phần phật đè lên vai những “thân cò” nhỏ thó bước đi thoăn thoắt. Trong cánh phường buôn ấy có cả những người có điều kiện hơn, họ chở những sọt hàng trên xe máy, xe đạp.

Từ những nét nhìn hiện thực, chúng tôi nhớ đến truyền thuyết kể rằng: “Vua đi mãi, đi mãi hết nơi này đến nơi khác mà chưa chọn được nơi nào để định đô. Cuối cùng đến một vùng đất, trước mặt hội tụ của 3 con sông, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về, đồi núi gần xa, thế đất bày ra hình long chầu hổ phục... bốn bề cây cỏ xanh tốt. Vua cả mừng khen rằng, đây thực chất là đất họp muôn dân, thế đất vững bền có thể dựng nước được muôn đời và gọi tên là thành Phong Châu. Làng Cả nằm vào nội thành kinh đô Văn Lang xưa”. (*)

Sau ba lần tiến hành khai quật khảo cổ vào các năm 1974, 1976 - 1977 và năm 2005, với những hiện vật tùy táng được tìm thấy từ những ngôi mộ táng lớn kết hợp với tư liệu khoa học lịch sử khác, các nhà khoa học kết luận nơi đây chính là kinh đô Văn Lang - đất tổ của Người Việt.

Cho đến ngày nay dù trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, Làng Cả vẫn là nơi hội tụ đông vui, là nơi giao lưu buôn bán sầm uất của cư dân người Việt. Chỉ có điều, chẳng mấy ai có thể nhận ra đó là một khu Di tích lịch sử - kinh đô Văn Lang xưa.

Tan hoang kinh đô Văn Lang

Nằm trong thành phố Việt Trì, cách quốc lộ 2 chừng vài chục mét, khu Di tích lịch sử (DTLS) Làng Cả, ngoài cái cổng sừng sững được dựng lên trong dịp đón chứng nhận DTLS cấp quốc gia năm 2007 do Bộ Văn hóa Thông tin (cũ) cấp tháng 8/2006, hiện vẫn còn nguyên vẹn, còn hầu hết những tấm biển khác thì nằm đâu đó xen kẽ với quán thịt chó, biển “WC”, có tấm biển đề “khu DTLS Làng Cả đã được xếp hạng cấp quốc gia” được cắm xuống ao nước đen xì, chữ còn, chữ mất. Xa xa những tấm biển di tích này là những bãi tập kết than, còn nhà máy Miwon sau khi được mở rộng, nhìn thực tế và trên bản đồ quy hoạch khu DTLS thì thấy rõ chỗ thò chỗ thụt tạo nên sự “lồi lõm” cho khu DTLS Làng Cả.

Được biết, khu DTLS Làng Cả đã được UBND tỉnh Phú Thọ phê duyệt quy hoạch để bảo vệ từ tháng 3/2007, nhưng không biết vì lý do gì, trong khu di tích lại có những dịch vụ khó coi như vậy.

Nếu UBND tỉnh Phú Thọ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch không có ngay những biện pháp tích cực để bảo vệ thì không biết khu DTLS đặc biệt quan trọng này sẽ đi về đâu?

Trả lời báo chí, ông Nguyễn Doãn Khánh, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ thừa nhận, cảnh quan môi trường của khu DTLS Làng Cả đang bị xuống cấp và do sự thiếu quan tâm chỉ đạo của chính quyền sở tại, các cơ quan chức năng. Tới đây UBND tỉnh sẽ chỉ đạo chính quyền sở tại, các cơ quan chức năng khẩn trương di dời các công trình làm xấu cảnh quan môi trường.

Trao đổi với Dân trí, một lãnh đạo phường Thọ Sơn cho biết, đến cuối năm 2008, chúng tôi sẽ cưỡng chế cho di dời toàn bộ những công trình đang vi phạm vào khu DTLS Làng Cả.

(*): Trích trong truyền thuyết Hùng Vương - Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú (cũ) xuất bản 1970 - trang: 42.

Chỉ còn chiếc cổng làng là còn vẹn nguyên

 

Bún thịt chó "xếp trên" DTLS

Tranh thủ sự quản lí lỏng lẻo, thoải mái tập kết than.

Chuyến đò cuối cùng của một buổi chiều đưa họ vượt sông Hồng về với gia đình

Tấm biển này có giá trị gì ?!

bài và ảnh: Hồng Ngân

nguồn: http://dantri.com.vn/Sukien/moi-truong/Kinh-do-Van-Lang-co-SOS/2008/10/256406.vip

081124- Giải pháp nào để bảo tồn di sản Huế bền vững?

 

 

KTNT - Hợp tác với các tổ chức quốc tế, vận động cộng đồng tham gia trùng tu, bảo vệ, hướng tới bảo tồn và phát huy giá trị di sản bền vững, cũng như tìm giải pháp để người dân được hưởng lợi từ di sản,... là nội dung chính của Hội thảo “Cơ hội và thách thức cho di sản Huế trong giai đoạn hội nhập quốc tế” vừa được Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức. Bên lề hội thảo, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với KTS. Phùng Phu, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế (TTBTDTCĐH).

Thưa ông, qua 15 năm làm công tác bảo tồn, ông nhận thấy đâu là khó khăn trong công tác trùng tu, bảo tồn di tích Huế hiện nay?

Di sản văn hóa Huế là phức hợp di tích mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và kinh tế, bao gồm kiến trúc thành quách, hoàng cung, đền đài, lăng tẩm mang đậm bản sắc dân tộc, tín ngưỡng phương Đông... Trải qua chiến tranh tàn khốc và thiên nhiên khắc nghiệt, tính đến năm 1975, quần thể di tích Huế chỉ còn 480 công trình trên tổng số 1.000 công trình tồn tại nhưng cũng trong tình trạng hư hại hoặc xuống cấp nghiêm trọng, thậm chí đã trở thành phế tích.

Trong 15 năm qua, đã có gần 100 công trình được phục hồi, hàng trăm công trình được bảo quản chống xuống cấp, cơ sở hạ tầng được tăng cường, không gian phế tích dần thu hẹp...

Song đáng nói là, phần lớn các di tích của Huế nằm trong không gian rộng lớn, đan xen ở trong khu dân cư. Số lượng dân cư sống trong các khu vực bảo vệ di tích rất lớn, chiếm 1/2 dân số thành phố. Vì vậy, mọi hoạt động liên quan đến bảo vệ di tích đều có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của người dân. Vì thế, bảo tồn di sản nhưng cũng phải hài hoà với thiên nhiên và con người, phải để người dân được hưởng lợi từ di sản. Đó là bài toán khó. Ngoài ra, khó khăn về vấn đề phân công, phân cấp quản lý di tích, tình trạng lấn chiếm, vi phạm tại nhiều khu di tích diễn ra ngày càng phức tạp, chính sách bảo vệ hệ thống nhà vườn, sự đãi ngộ với nghệ nhân... không thể giải quyết trong một sớm, một chiều. Tôi hy vọng, cuộc hội thảo “mở” quy tụ hơn 60 đại biểu trong nước và quốc tế, những người nghiên cứu, làm công tác bảo tồn, nghiên cứu văn hoá sẽ tìm ra lời giải cho các vấn đề trên.

Vậy theo ông, đâu là cơ hội và thách thức cho di sản Huế trong giai đoạn hiện nay?

Ngày 30/8/2007, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 143/QĐ-TTg phê duyệt đề án xây dựng Huế trở thành thành phố festival đặc trưng của Việt Nam. Mới đây, Chính phủ lại phê duyệt đề án xây dựng Huế thành một trong những trung tâm văn hoá du lịch lớn của cả nước.

Hơn thế, các cuộc festival quốc tế là cơ hội để cố đô phô bày, trình diễn vẻ đẹp phong phú, giàu có về văn hoá của mình; những thành công trong quá trình hợp tác với các tổ chức trong nước và quốc tế để bảo tồn di sản đã tạo nên uy tín và vị thế đặc biệt cho Huế.

Ở khu vực miền Trung, “con đường di sản” với sự kết nối từ Hội An – Mỹ Sơn (Quảng Nam) – Huế đến Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), hay “Hành lang kinh tế Đông – Tây” kết nối từ Mianma – Thái Lan – Lào và Việt Nam đã khiến khu vực này trở thành một trong những địa chỉ du lịch hấp dẫn.

Nhưng, những cơ hội đó cũng đặt ra không ít thách thức cho chúng tôi. Trước hết, đó là khả năng đầu tư tương xứng để bảo tồn di sản Huế với quần thể di tích đồ sộ, di sản văn hoá phi vật thể phong phú và với môi trường cảnh quan rộng lớn, gắn bó hữu cơ với đô thị Huế. Phải làm gì và làm như thế nào để có được nguồn đầu tư lớn trong khi chủ yếu vẫn phải dựa vào ngân sách Nhà nước? Thứ hai là, vấn đề nguồn nhân lực đáp ứng cho công cuộc bảo tồn di sản Huế hiện rất thiếu. Tiếp đến là thách thức đến từ sự cạnh tranh giữa các khu di sản trong khu vực khi mà tại miền Trung và Tây Nguyên đã có 6/7 di sản thế giới (cả vật thể và phi vật thể). Trên tầm nhìn rộng hơn, Huế phải cạnh tranh với các nước Đông Nam Á, đó thực sự là những thách thức rất lớn đối với người làm công tác bảo tồn.

Theo ông, đâu là giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị của di sản Huế?

Mặc dù di tích cố đô Huế đã thoát khỏi tình trạng “cứu nguy khẩn cấp” nhưng không vì thế mà nhiệm vụ của công cuộc bảo tồn hướng tới mục tiêu phát triển bền vững bớt nặng nề hơn. Tuy rằng, cuộc vận động bảo vệ di tích Huế được UNESCO đánh giá là mang lại hiệu quả cao, nhưng chúng tôi vẫn cho rằng xã hội hoá công tác bảo tồn, dựa vào cộng đồng là giải pháp hữu hiệu. Mới đây, TTBTDTCĐH xây dựng chiến lược bảo tồn di sản dựa vào mạng lưới cộng đồng, với sự hỗ trợ của vùng Nord Pas de Calais (Pháp) nhằm nâng cao ý thức của cộng đồng trong việc chống xâm hại, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của hệ thống di tích.

Nhóm thanh niên tình nguyện của Trung tâm có kiến thức về di sản sẽ đóng vai trò nòng cốt, đồng thời huy động lực lượng thanh niên của các cơ quan, đoàn thể và địa phương cùng tham gia. Ngoài ra, để vượt qua những thách thức hiện nay, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng là một yêu cầu không thể thiếu. Hiện, Trung tâm đang phối hợp với tổ chức Urban Solution (Hà Lan), tiến hành điều tra, khảo sát để xây dựng kế hoạch quản lý tổng thể cho khu di tích Huế.

Các chuyên gia UNESCO khuyến nghị mở rộng ranh giới khu vực vùng đệm của khu di sản Huế để có thể bao trùm toàn bộ cảnh quan văn hoá dọc sông Hương và những mối liên kết quan trọng với khu kinh thành hiện được ghi nhận là Di sản thế giới. Sự tiến bộ trong nhận thức của Việt Nam và quốc tế về vai trò của văn hoá đối với sự phát triển bền vững đã mở ra nhiều cơ hội cho di sản Huế trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Nhân dịp này, UNESCO kêu gọi tăng cường các biện pháp quản lý và bảo vệ, nhận thức đầy đủ những giá trị của di sản để hỗ trợ sự phát triển bền vững. Bên cạnh việc công nhận, UNESCO sẵn sàng tiếp tục hỗ trợ bảo tồn những giá trị vật thể và phi vật thể của di sản Huế.

(Trích thông điệp gửi đến Hội thảo của bà Vibeke Jensen, Trưởng đại diện UNESCO tại Hà Nội)

Nguyễn Thuỷ (thực hiện)

nguồn: http://beta.baomoi.com/Home/KhoaHoc-TuNhien/www.kinhtenongthon.com.vn/Giai-phap-nao-de-bao-ton-di-san-Hue-ben-vung/2204825.epi