Hiển thị các bài đăng có nhãn sàigòn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn sàigòn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

Di sản Sài Gòn: Bưu điện Trung tâm




Ảnh: TLV- 6/2012
Ngay sau khi đánh thành Gia Định, chiếm được vùng đất Sài Gòn, Pháp đã thiết lập hệ thống thông tin liên lạc. Ngày 11.11.1860, "Sở dây thép" Sài Gòn (tức Bưu điện Sài Gòn) được thành lập. Ông Phạm Văn Trung là người Việt Nam đầu tiên làm giám đốc Bưu điện An Nam tại Sài Gòn. Ngày 13.1.1863, Sở dây thép Sài Gòn được chính thức khánh thành và phát hành “con cò" (người Sài Gòn xưa hay gọi con tem là con cò) đẩu tiên. Năm 1864, dân chúng Sài Gòn bắt đầu gởi thơ qua nhà "dây thép" (hệ thống bưu điện).
Năm 1886, Bưu điện Sài Gòn được xây cất lại với qui mô hiện đại thay thế cho trụ sở và khu nhà ở cũ, tòa nhà bưu điện thành phố được xây dựng lại theo đề án của kiến trúc sư người Pháp là Vilơdic.. Đến năm 1891, trụ sở mới của Bưu điện Sài Gòn được chính thức khánh thành. Trước đó, đường dây thép Sài Gòn - Qui Nhơn - Đà Nẵng - Huế - Vinh - Hà Nội dài 2000 km đã được chính thức hoàn thành (vào ngày 22.3.1888). Năm 1889 mở thêm đường liên lạc điện báo Sài Gòn - Băng Cốc để phục vụ cho giới kinh doanh thương mại. Từ ngày 1.7.1894 Sài Gòn bắt đầu sử dụng hệ thống điện thoại.
Ngày nay hệ thống bưu chính viễn thông trở nên quen thuộc với mọi người dân nhưng từ nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước hệ thống bưu điện vẫn còn xa lạ đối với nhiều người dân Sài Gòn.
Toà nhà Bưu điện Sài Gòn là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng của thành phố, có nhiều đặc trưng của phong cách kiến trúc châu Âu và châu Á quyện vào nhau. Tòa nhà tọa lạc bên hông Vương cung Thánh đường (Nhà thờ Ðức Bà) ở quảng trường Công Xã Paris. Nhà Bưu điện được xây dựng xong, trở thành một loại hình dịch vụ lạ và gây ấn tượng rất mạnh với dân chúng.
Vẻ đẹp độc đáo của toà nhà bưu điện thành phố càng được tôn lên vì trước mặt nó có một công trình lộng lẫy là Nhà thờ Đức Bà với tháp chuông cao vút. Từ đó đến nay, tòa nhà này luôn là trung tâm bưu điện của thành phố. Tòa nhà nổi bật với sự bố cục cân đối của các hạng mục công trình mang tính thẩm mỹ cao. Các chi tiết cân đối, chia đều ra hai bên, đối xứng nhau qua một "trục" trung tâm. Mặt tiền có kết cấu hình khối, với vòm cung phía trên các cửa. Hệ thống cột, trụ chính, phụ, mái hiên đều có kết cấu hình khối vuông. Trên mỗi đầu trụ, cột được chạm khắc hoa văn, phù điều công phu, tỉ mỉ. Ở mặt tiền tòa nhà có hệ thống đường viền, đường chỉ là những chuỗi hoa văn chạy ngang, tạo nên vẻ đẹp, sự cân đối và làm cho tòa nhà có vẻ như không cao lắm.
Bên trong tòa nhà là hệ thống vòm cung sát cửa chính và vòm cung dài bên trong. Vòm cung lớn được chống đỡ bởi bốn trụ sắt nằm bốn góc, mỗi cột chống đỡ bốn kèo sắt tỏa ra bốn phía. Vòm cung dài được chịu lực bởi hai hàng trụ sắt hai bên. Các điểm tiếp nối giữa trụ và kèo sắt được thiết kế công phu, chạm khắc thành những chi tiết có hoa văn đẹp.
Với hệ thống vòm cung này, tòa nhà trở nên cao, rộng rãi và thoáng mát, thích hợp với một nơi thường có nhiều người ra vào. Với thiết kế độc đáo từ trong đến ngoài như vậy, tòa nhà Bưu điện Sài Gòn có thể xem là một công trình xây dựng có phong cách độc đáo về kiến trúc, màu sắc của Sài Gòn lúc bấy giờ.
Trên vòm mái trong tiền sảnh của toà nhà có hai bản đồ lịch sử: “Saigon et ses environs 1892” và “Lignes télegraphiques du Sud Vietnam et du Cambodge 1936”. Ngày nay, xung quanh tòa nhà chính còn có thêm một số công trình kiến trúc làm kho tàng, lắp đặt những máy móc, thiết bị bưu điện truyền tin hiện đại…
Theo Internet

Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012

Di sản Sài Gòn: Lăng Ông- ảnh TLV




Lăng Lê Văn Duyệt một di tích kiến trúc nghệ thuật

Lê văn Duyệt sinh năm 1763 tại tổng Long Hưng, tỉnh Định Tường, nay là huyện Cái Bè (Tiền Giang).


Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trở thành huyền thoại pha trộn giữa ảo và thực. Tả quân Lê Văn Duyệt theo phò Nguyễn Anh từ những năm còn bôn ba chạy trốn quân Tây Sơn. Được phong nhiều chức tước, có quyền sinh, quyền sát, trong tay. Từng hai lần làm Tổng trấn thành Gia Định (lần thứ nhất 1813-1816, lần thứ hai 1820-1832), và cũng là vị tổng trấn cuối cùng thành Gia Định. Ông có khả năng về quân sự lẫn chính trị, ngoại giao, là một vị quan thanh liêm, cương trực. Dưới thời ông làm tổng chính trị, ngoại giao, đất Gia Định thái bình, dân chúng yên ổn làm ăn, kinh tế phát đạt. Đặc biệt ông có nhiều ưu đãi cho Hoa kiều nhập cư, làm ăn buôn bán...

Lê Văn Duyệt mất ngày 30-7 âm lịch, năm Nhâm Thìn (20-8-1832), tại Gia Định, hưởng dương 69 tuổi, mộ được đặt tại làng Bình Hoà (Gia Định). Năm 1835, do tư hiềm cũ và nhân cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê Văn Duyệt), vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng ngôi mộ, dựng bia đá lên trên có khắc tám chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xử” (chỗ tên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội). Mộ bị cuốc phẳng, xiềng xích sắt. Năm 1841, Thiệu Trị lên ngôi vua, cho xoá bỏ xiềng xích, đắp lại mộ. Đến đời vua Tự Đức, mộ được xây lại, đồng thời miếu thờ cũng được xây cất.

Ngày nay, khu lăng mộ toạ lạc tại số 126 Đinh Tiên Hoàng, quận Bình Thạnh (TP Hồ Chí Minh), trên một gò đất cao hình lưng rùa. Khuôn viên lăng hiện nay còn lại 18.500m2, được giới hạn bên ngoài bằng bức tường có chu vi 500m, cao 1,2m. Bức tường được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng. Cổng tam quan được đặt ở hướng nam, trên cổng được đắp nổi hàng đại tự bằng chữ Hán: “Thượng công linh miếu”. Cổng tam quan của lăng có lúc đã từng được chọn là biểu tượng của vùng đất Sài Gòn-Gia Định xưa.

Lăng mộ và miếu thờ Tả quân Lê Văn Duyệt được xây dựng trên một trục chính từ cổng tam quan vào, Nhà bia-Lăng mộ-Linh miếu. Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Văn bia do Hoàng Cao Khải viết năm Giáp Ngọ 1894. Nội dung ca tụng công đức của ông đối với triều đình và nhân dân.

Phần mộ gồm hai ngôi: Tả quân và phu nhân Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp lên bệ hình chữ nhật. Phía trước có một sân nhỏ để làm lễ. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong hình chữ nhật.

Cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng là đến khu vực linh miếu, nơi diễn ra các sinh hoạt tín gưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của linh miếu gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh. Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy đông lang và tây lang.

Hơn một thế kỉ qua, lăng miếu Lê Văn Duyệt đã được xây dựng và hoàn thiện như ngày nay. Đây là một công trình kiến trúc thể hiện tài năng và quá trình sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động. Công trình còn thể hiện những ý niệm của Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo đã được Việt hoá một cách chọn lọc. Chính vì những giá trị lịch sử và nghệ thuật đó mà lăng Lê Văn Duyệt được Bộ Văn hoá (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật (ngày 16-11-1988).

Từ khi mất, trong dân gian đã xem ông như một vị thần. Vì việc thờ cúng và tế lễ tại lăng mang nghi thức thờ thần và tế thần. Lễ giỗ Lê Văn Duyệt được tổ chức tại lăng ông vào các ngày 29 và 30 -7 và mồng 1-8 âm lịch hằng năm. Trong lễ giỗ, ngoài phần lễ bái theo nghi thức cổ truyền Nam Bộ, còn tổ chức xây chầu hát bội. Nơi trình diễn là sân khấu được dựng ngay trong gian tiền điện, diễn xướng với nhiều nhân vật, nhiều tích trò... Đây là một lễ hội lớn của đất Gia Định xưa và Nam Bộ ngày nay. Người đến chiêm bái còn có tục “xin xăm” với hi vọng tìm một lời giải đáp về sự may mắn tránh rủi ro về gia đạo, nhân duyên, cầu tài, cầu phúc, cầu lộc... Ngoài ra, lễ hội còn diễn ra vào ngày mồng 7 tháng giêng âm lịch. Đây chính là hội xuân có lễ dâng hương cầu chúc năm mới. Nhân dân quanh vùng về đây rất đông để vui chơi, cầu phúc và nhớ ơn công đức của Tả quân Lê Văn Duyệt.

Võ Thanh Phụng
nguồn: http://nguoicaotuoi.org.vn/Story.aspx?lang=vn&zoneparent=0&zone=22&ID=1570

Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

Quan niệm về miếng ăn qua ca dao, tục ngữ VN

PHẦN 01: ĐỊA PHƯƠNG NÀO, MÓN ĂN NẤY

Bài cùng chuyên đề:

1. Dĩ thực vi tiên

Ngày xưa, có người đã nhận thấy cái tánh cách tối quan trọng của miếng ăn trong đời sống con người nên đã chủ trương “Dĩ thực vi tiên”. Phải ăn đã, rồi muốn gì hãy hay. Văn nghệ, triết lý, tôn giáo, v.v… đều phải đứng sau cái ăn. Chẳng thế mà có người nhất định đòi hỏi ngay sự thỏa mãn cái bao tử trước khi bắt tay vào một việc đã cả gan hô hào: “Có thực mới vực được đạo”. Câu triết lý vị nhân sinh trên kéo người về thực tại, đặt trước những vấn đề cần phải giải quyết hàng ngày. Dù cho kẻ sĩ đã khuyên “Thực bất cầu bão”, nghĩa là ăn chẳng cần no, nhưng trước sự dày vò mãnh liệt của cái nhu cầu số một thì con người đạo lý cũng không thể làm gì khác hơn như thầy đồ sau đây :

Thầy đồ mà chẳng ăn khoai
Đến khi luộc, nồi ba còn hai củ hà.

Cái cười vừa trào lộng, vừa thiết thực trên đã hé cho ta thấy được một phần cái nhân sinh quan của người bình dân.

Tuy nhiên, ăn thì cũng có năm bảy đường ăn. Và nghệ thuật ăn cũng đòi hỏi lắm công phu. Ăn phải thế nào? Trong một xã hội xô bồ, giữa những ý nghĩ phiền toái về nhân sinh thì miếng ăn phải được đánh giá thế nào cho hợp lý? Ta hãy thử tìm hiểu quan niệm về miếng ăn trên lãnh vực ca dao, tục ngữ.

2. Miếng ăn mang tính dân tộc

Mỗi lần nghĩ đến một địa phương nói hẹp hay một dân tộc nói rộng ra là người ta nghĩ ngay đến những món ăn của địa phương hay của dân tộc ấy. Ai lại không hay nhắc nhở đến món gỏi cá sống của người Nhật, món ca-ry cay của người Ấn, món mỳ sợi của người Ý, các thứ phô-mách của người Pháp và các món mắm đặc biệt của người Việt Nam. Trong ca dao, tục ngữ, ta thấy nhiều địa danh được nhắc nhở đến bên cạnh tên những món ăn được nêu ra.

Trong nỗi nhớ thương sâu đậm quê hương, chứa đựng cái tình quyến luyến mặn nồng những món ăn địa phương, hạp với khẩu vị người từng vùng, người miền Nam thấy món canh chua cá lóc thích khẩu cũng như người miền Bắc tha thiết với món thịt nấu đông trong ba ngày Tết. Cho nên, đồng bào miền Bắc khi lìa làng mạc chẳng đã than thở :

Ra đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai giãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường đêm nao…

Nào những món ăn cố hữu, nào cảnh, nào người đúc lại, rồi cô đọng thành hình ảnh lưu luyến nặng niềm nhớ quê hương. Nếu có lìa làng xa xứ, thì lòng người dân cũng ngập ngừng, xót xa :

Ai chẳng nhớ cháo làng Ghề
Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên.

Ở đất Bắc, ai lại không nhớ mãi hương vị đặc biệt :

Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần
Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.

Còn những người sành ăn thì bao giờ cũng thích :

Sáng ngày bồ dục chấm chanh
Trưa gỏi cá cháy, tối canh cá chày.

Nhất béo, nhì bùi là cá rô câu.

Trăm đám cưới chẳng bằng hàm dưới con cá trê.

Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm.

Chắc hẳn, những món ăn đặc biệt nấu với những bộ phận của mỗi thứ cá trên đã làm khoái khẩu thực khách. Lẽ dĩ nhiên, thực khách cũng khó mà quên địa phương đã cung cấp “đồ nhắm” ấy cho mình.

Rồi khách du rời miền Bắc, vào đến xứ Trung thì làm sao quên được :

Yến sào Vĩnh Sơn
Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Quảng Khê
Sò nghêu Quản Hà
Rượu dâu Thuần Lý.

Cái chất giải khát ủ bằng dâu rừng chua chua, ngọt ngọt của miền này đã hơn một lần đắm say lòng người trai:

Mang bầu đến quán rượu dâu
Say sưa quên hết những câu ân tình.

Rượu ở đây thật đã lấn át cả ảnh hưởng của tình ái, đã làm khách rượu quên hẳn hình ảnh yểu điệu của người thục nữ.

Vô tới Huế, đất Đế đô, ta thưởng thức :

Ốc gạo Thanh Hà
Mật rú Bát Phường
Măng cày huyện Do
Gầm ghì chợ huyện
Thơm rượu Hà Trung
Mắm ruốc Cửa Tùng
Mắm nêm chợ Sãi.

Tất cả các món ăn trên đã làm cho khách khó quên được hình ảnh duyên dáng của các tỉnh đã vượt qua. Nhưng kìa, những tỉnh bên kia đèo Hải Vân như ân cần mời mọc khách. Dù lòng khách đã bâng khuâng khi trèo núi vượt đèo, nhưng cùng khuây khỏa phần nào nếu được nếm các món ăn xứ Quảng :

Nem chả Hòa Vang
Bánh tổ Hội An
Khoai lang Trà Kiệu
Thơm rượu Tam Kỳ.

Ở đây, trên eo đất hẹp lách mình giữa dãy Hoành Sơn cao ngất và biển cả mênh mông, người dân cần thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa hai miền sơn cước và đồng bằng hơn đâu hết để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt. Tình đoàn kết cần thiết cho sự sống còn của người miền Trung được biểu hiện trong câu ca dao :

Ai về nhắn với họ nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên.

Đất hẹp người đông, nếu bành trướng ra phía Đông thì gặp trở ngại của biển cả, nên đành quay lên rừng vỡ đất, làm quen với vùng sơn cước :

Măng giang nấu cá ngạch nguồn
Đến đây nên phải bán buồn mua vui.

Thật ra, món ăn của núi rừng có làm khuây được nỗi sầu muộn không?

Coi chừng đấy, người ta không phải chỉ dùng những nét quyến rũ của một nhan sắc để nhen một mối tình, mà còn dùng hương vị của một món ăn mộc mạc để cám dỗ người trai xa xứ :

Cá nục nấu với dưa hường
Lơ mơ có kẻ mất chồng như chơi.

Hay là :

Thương em vì cá trích ve
Vì rau muống luộc, vì mè trộn măng.

Vào đến Quảng Ngãi, ta thưởng thức :

Chim mía Xuân Phổ
Cá bống Sơn Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Thi Phổ.

Đến Quy Nhơn, ta nếm được hương vị đậm đà của món bánh ít lá gai :

Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.

Vào tới Khánh Hòa, ta được dịp thưởng thức các món sơn hào hải vị :

Yến sào Hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba

Sò huyết Cam Ranh
Nai khô Diên Khánh.

Lòng khách cảm thấy thoải mái, thơ thới khi đặt chân đến miền Nam phì nhiêu, dân cư yên vui và ai lại không biết tiếng :

Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.

Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc.

Ngoài ra, đất ở đây thì rộng, dân thì thưa thớt, cái xứ ruộng cò bay thẳng cánh, có tiếng là nơi hưởng được đời sống tương đối sung túc vì thực phẩm dồi dào :

Ba phen quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm.

Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.

Ở các đảo ven bờ biển trong vịnh Thái Lan có những khu rừng sác trù mật mà các loại chim biển thường về trú ngụ, làm tổ :

Tháng Tư cơm gói ra hòn
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang Mai.

Mỗi miền lại sản xuất một món ăn mang hương vị đặc biệt :

Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.

Cá, tôm, cua, còng dồi dào đã nuôi sống người dân, nhưng vật thực cần phải thêm các loại rau cải để các món ăn đưỡc cải thiện cho thích với khẩu vị :

Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.

Cho đến gia vị thêm thắt vào nồi canh cá để cho món ăn đậm đà, quyến rũ hơn cũng được ca tụng :

Ví dầu con cá nấu canh
Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm.

Miền Nam cũng có nhiều món ăn đặc biệt như món hầm gà sau đây :

Khoan khoan mổ một con gà
Bí đao xắt nhỏ, tiêu cà bỏ vô.

Và các tay rượu thì không thích gì bằng:

Thứ nhất phao câu, thứ nhì đầu cánh.

♦♦♦

PHẦN 2: TẬP QUÁN, LỄ NGHI QUA MỖI MÓN ĂN

1. Tập quán, lễ nghi qua mỗi món ăn

Các món ăn được nhắc nhở đến như thế vì đã liên hệ đến tính chất của mỗi địa phương. Cho nên, trong lễ nghi cưới xin, miếng ăn biến thành lễ vật, thay đổi tùy theo từng vùng.

Sau mối tình khắn khít thì người con trai phải nhờ đến lễ nghi để hợp thức hóa cuộc sống chung tương lai.

Anh thương em chẳng ngại sang giàu
Mứt hồng đôi lượng, trà Tàu đôi cân.

Ở đây đồng đất phố phường
Để anh mua cốm, mua hồng sang sêu.

Hay là lễ vật đơn sơ :

Mâm trầu hũ rượu đàng hoàng
Cậy mai đến nói phụ mẫu nàng thì xong.

Hay là :

Tay bưng quả nếp vô phòng
Đèn hương đôi ngọn, chữ bá tòng cầu hôn.

Cũng có vùng lấy sản phẩm địa phương làm lễ vật :

Tiếng đồn con gái Phú Yên
Con trai Bình Thuận đi cưới một thiên cá mòi.

Cũng đôi khi cuộc tình duyên ép uổng đã làm khổ sở người con gái phải ngậm ngùi phục tùng lễ giáo, vâng lời tuyệt đối người trên, cha mẹ “đặt đâu thì ngồi đó”. Cái tập quán “ép uổng duyên con” ấy thường đi theo với sự ham muốn “môn đăng hộ đối”, sự tham lam lễ vật quá ư linh đình của nhà trai :

Mẹ tôi tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
Tôi đã bảo mẹ rằng: “Đừng!”

Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào
Bây giờ kẻ thấp người cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.

Lời than thân trách phận của người đàn bà bị ép duyên với người chồng không cân xứng nghe thật xót xa, não nùng.

Và đây, cũng ở trong vòng tập quán, khi nghe tiếng cu kêu báo hiệu mùa hoa nở đến, ta lại liên tưởng đến Tết, đến những ngày đầu xuân rảnh rang đầy những bữa ăn ngon, bao giờ cũng có nồi chè dân tộc :

Cu kêu ba tiếng, cu kêu
Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè.

Hồi trước, ở nhà quê, lúc chế độ xôi thịt còn đang thịnh hành thì được làng chia cho một phần thịt thật là cả một vinh dự : “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”.

2. Món ăn nhắc nhở đến tình yêu thương quê hương xứ sở

Như ta đã thấy, món ăn nói lên được những đặc sắc của mỗi địa phương, mang ít nhiều vết tích của tập quán, lễ nghi. Cao hơn nữa, các món ăn còn tiêu biểu phần nào cho tình yêu thương quê hương, nghĩa đoàn kết giữa đồng bào. Có phải lời lẽ tha thiết chứa đựng trong câu ca dao dưới đây là cả tiếng gọi thành khẩn và hiệu lực về mối đoàn kết giữa vùng rừng núi và miền biển cả, tượng trưng cho sự hòa hợp nhất trí của toàn thể đất nước :

Rủ nhau xuống biển mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước biếc ta đừng quên nhau.

Ta đừng quên nhau cũng có nghĩa là ta phải yêu thương nhau, chung vai đấu cật, cùng đóng góp tài lực để xây dựng quê hương. Chẳng thế mà có người phải bùi ngùi tấc dạ khi tha phương cầu thực, gởi niềm nhớ đất nước vào nỗi thèm khát món ăn thô sơ của nơi chôn nhau cắt rốn :

Ra đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Món canh rau muống, món cà dầm tương cũng như món cà non chấm mắm, cà già bỏ dưa dưới đây đã giữ trong lòng người dân niềm lưu luyến sắt đá đối với làng nước :

Bồng em đi dạo vườn cà
Cà non chấm mắm, cà già làm dưa
Làm dưa ba bữa dưa chua…

Có phải hình ảnh nhàn hạ ở đồng quê yên vui đã giữ chặt con người với nơi chôn nhau cắt rốn :

Ta về ta sắm cần câu
Câu lấy cá bống nấu canh tập tàng.

♦♦♦

PHẦN 03: MIẾNG ĂN THỂ HIỆN TÌNH CẢM CON NGƯỜI

Thu hẹp lại trong phạm vi cá nhân, mỗi món ăn tiêu biểu cho sở thích của con người thì thế nào cũng tố giác được tình cảm, tánh tình của người ấy. Ta thử tìm hiểu tình cảm con người phát lộ trong miếng ăn như thế nào.

1. Lòng hiếu thảo

Đầu tiên, ta đề cập đến lòng hiếu thảo. Người con phải tận tâm săn sóc cha mẹ già, cố gắng tìm món ngon vật lạ để dâng cho song thân :

Tôm càng lột vỏ, bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.

Hay là :

Năm tiền một khúc cá buôi
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.

Dù cho bà mẹ có nghiêm khắc đến đâu, phận con cũng phải cố phụng dưỡng cho chu đáo :

Má ơi, đừng đánh con đau
Để con bắt ốc, hái rau má nhờ!

Hay là :

Má ơi, đừng đánh con hoài
Để con bắt cá nấu xoài má ăn!

Gặp những năm đói kém thì lòng hiếu thảo càng được tỏ rõ. Người con chịu sống kham khổ, ăn quơ quào để đánh lừa cái đói, miễn là mẹ già được no ấm :

Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

2. Tình yêu trai gái

Giữa trai và gái, món ăn là một mối dây nối kết. Để thể hiện một mối tình chớm nở, để nói lên được niềm nhớ nhung người yêu, không gì bằng câu ca dao sau đây :

Rượu nằm trong nhạo chờ nem
Anh nằm phòng vắng chờ em một mình.

Tình ái như một vị hương ngào ngạt làm đắm say lòng người, kẻ được yêu cảm thấy ngây ngất như được thưởng thức món ăn ngon vật lạ :

Cầm tay em như ăn bì nem, gỏi cuốn
Dựa lưng nàng như uống chén rượu ngon.

Lòng nhớ thương của người con trai được thể hiện trong câu :

Bữa ăn có cá cùng canh
Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàng.

Ví von như thế thật là vừa thực tế và cũng vừa ngộ nghĩnh…

Tuy nhiên, người con gái dùng hình ảnh cụ thể qua những lời thâm thúy và thanh nhã để nói lên được một cách kín đáo lòng trong trắng của mình :

Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi

Hay là :

Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày.

Hay là :

Thân em khác thể trái chanh
Lắt lẻo trên cành, nhiều kẻ ước mơ.

Cách diễn tả những câu ca dao trên đây có cái táo bạo, cái sắc bén của những câu thơ Xuân Hương hay cái vẻ lả lơi, kỳ cổ của những câu thơ Ôn Như Hầu, nhưng vẫn không mất đi vẻ trang nhã, tế nhị.

3. Tình vợ chồng

Khi trai gái đã thành gia thất thì mối tình kia lắng xuống đậm đà hơn để đương đầu với bao thử thách đắng cay :

Tay bưng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.

Cải bẹ xanh nấu với thịt sườn
Khổ qua kia hết đắng thì cái sự can thường hết thương.

Vì đã lấy nhau vì tình thì đâu có ngại cảnh sống nghèo khó, đâu có sờn lòng trước gian khổ :

Lên non thiếp cũng lên theo
Tay vịn chân trèo, hái trái nuôi nhau.

Đôi ta là nghĩa tào khang
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau.

Yêu thương như thế thật là gắn bó keo sơn, thật là một bài học thiết thực cảnh tỉnh những người hèn hạ đã từng “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ”.

Và đây là một hình ảnh ấm cúng, cảnh vợ chồng hòa thuận, tâm đầu ý hợp trong bữa ăn đạm bạc :

Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Tình thương chồng được phát lộ trong cách thức săn sóc chồng từng bữa ăn, lúc bình thường cũng như khi đau yếu :

Hồi nào mình bịnh, mình đau
Bắt từng con cá ruộng, nấu canh rau nuôi mình.

Hay là :

Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen.

Tuy nhiên, đôi khi gặp cảnh tình lạt, nghĩa phai, người vợ hiền đau khổ và thở than :

Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội để khi đói lòng.

4. Tình bác ái trong miếng ăn

Khi quyền lợt cá nhân đã được thỏa đáng, khi bản thân đã ấm no thì thói thường con người hay nghĩ đến những người bất hạnh khác, những người sống đời đói rét, đương đau khổ hay đương kéo dài đời sống cô đơn :

Thóc bồ, thương kẻ ăn đong
Có chồng, thương kẻ nằm không một mình.

Tình bác ái được nêu rõ với một lập luận vừa cụ thể, vừa hợp lý. Hình ảnh người giàu thóc đối xứng với kẻ chạy ăn hằng bữa, hình ảnh đầm ấm của đời sống lứa đôi làm nổi bật cảnh lạnh lùng của kẻ cô đơn. Nhưng tình thương người không phải chỉ nằm trong vòng lý thuyết, nghĩa là chỉ là tình thương hại suông thôi. Lòng nhân từ phải cần được thi hành đúng đắn, nghĩa là phải thiết thực cứu giúp người, trong lúc người còn đương hoạn nạn, đau khổ :

Một miếng khi đói bằng một gói khi no.

Tương trợ như vậy mới tránh được tình cảm thiên vị, khỏi phải mang tiếng là vì quyền lợi cá nhân hay vì hiếu danh, hiếu thắng

♦♦♦

PHẦN 04: MIẾNG ĂN HAY LÀ TRIẾT LÝ CỦA CUỘC ĐỜI

1. Thói đời qua miếng ăn

Có người quần quật suốt ngày cũng vì miếng ăn. Có người ty tiện, bán cả danh cả tiếng, cầu cạnh cho được bả vinh hoa, mồi phú quý. Hạng người này có biết đâu “Miếng thịt là miếng nhục”. Suốt đời chạy theo miếng ăn, sống chết vì miếng ăn, coi miếng ăn là tuyệt đích :

Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.

Trái lại cũng có người trước danh lợi vẫn giữ được nếp sống trắng trong. Họ quan niệm đời một cách khác, vì họ cho đời lẫn lộn đắng cay, ngọt bùi. Sở dĩ người ta giành giật, xâu xé nhau vì đời là trường tranh đấu :

Sự đời nghĩ cũng nực cười
Một con cá lội, mấy người buông câu.

Trong thiên hạ, nhiều người tranh nhau từng miếng ăn, nói xấu, hãm hại nhau, tìm cách dìm người khác xuống :

Trâu cột thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn quần dài.

Bậu chê qua ở rẫy ăn còng
Bậu về ở chợ, ăn ròng mắm nêm.

Hơn nữa, ngoài chợ đời thì thiếu chi người gian trá, bịp đời, sống trên lưng người, thuộc vào phường “treo đầu dê, bán thịt chó”. Họ còn lắm mồm lắm miệng, nói ngược nói xuôi, chê khen vô lối :

Cá không ăn câu chê rằng cá dại
Cá mắc câu rồi nói tại tham ăn.

Tuy nhiên, có khi tranh giành nhau đến trầy vi tróc vảy mà chung quy vẫn hoài công, vì kết quả thu được chẳng là bao :

Sá chi một nải chuối xanh
Năm bảy người giành cho mủ dính tay.

Thật là một chuỗi cười trào lộng pha vị chua chát, như chửi vào mặt bọn buôn danh bán tiếng, suốt đời chạy theo cái bóng hư danh? Ý tưởng này nhắc ta nhớ đến quan niệm về cuộc đời của nhà thơ Lý Bạch cho rằng, đời chỉ là một giấc mộng lớn, cần gì phải lao đao, lận đận (Xử thế nhược đại mông/ Hồ vi lao kỳ sinh?).

Câu ca dao sau đây cũng giúp ta suy nghĩ nhiều về thái độ giả dối của những người chỉ tha thiết nghĩ đến quyền lợi của bản thân mình thôi :

Cơm ăn không hết thì treo
Việc làm không hết thì kêu xóm làng.

Cuối cùng, qua miếng ăn, ta thấy ca dao tục ngữ cũng bày ra hạng người vong bổn, chỉ biết mới chuộng cũ vong, chẳng khác chi :

Có chả, em tình phụ xôi
Có cam phụ quýt, có người phụ ta.

Ăn cháo đá bát.

2. Thái độ đối phó

Cuộc đời quả thật phiền toái và đắng cay. Cho nên, dựa trên kinh nghiệm, chúng ta phải có thái độ đối phó như thế nào, phải khôn ngoan xử thế làm sao cho hợp lý.

Ca dao tục ngữ dạy ta sống là phải đấu tranh, phải chịu đựng gian khổ mới có thể mưu sinh dễ dàng.

Có khó mới có miếng ăn
Ngồi không ai dễ mang phần tới cho.

Muốn ăn phải lăn vào bếp.

Làm sao mà ăn không, ở vì được trong khi mọi người đếu lấy “bát mồ hôi đổi bát cơm”?

Thành thử, khi ra đời, phải tập luyện cho cơ thể quen thuộc với nắng mưa, chịu đựng gian khổ :

Đã từng ăn bát cơm đầy
Đã từng nhịn đói cả ngày chẳng ăn.

Nếu có gặp được cảnh sống thư thả, sung túc thì phải nghĩ đến những lúc thiếu thốn và một ngày mai có thể bị sa cơ thất thế :

Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến năm có hạn lấy ai bạn cùng?

Thái độ có hậu, chung thủy như trên rất hợp với tinh thần nhân nghĩa của người Á Đông. Còn muốn đảm bảo thành công ở đời thì ta phải khôn ngoan xử sự, có óc thiết thực, không bao giờ chuộng những cái gì hão huyền :

Sống thời con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi.

Cái lối sống thiết thực ấy phải là lối sống có điều độ, hợp với lẽ phải :

Anh ơi, uống rượu thì say
Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo.

Ăn lắm thời hết miếng ngon
Nói lắm thời hết lời khôn, hóa rồ.

Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.

Tuy rằng phải tùy cơ ứng biến, phải “Ăn theo thuở, ở theo thì”, nhưng con người trung nghĩa thì bao giờ cũng phải chuộng sự thật, tránh thái độ gian tham, giả dối :

Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối.

Những câu phương ngôn trên diễn tả những món ăn, vật uống đã là những lý luận mẫu mực, xác đáng dạy ta phép xử thế thực tiễn.

3. Bổn phận trong miếng ăn

Tuy là phải “vắt đầu cá, vá đầu tôm”, một nắng hai sương để chạy từng bữa ăn, nhưng con người còn có cái gì quý hóa, thiêng liêng hơn, đó là bổn phận :

Anh đi, em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi, anh liệu chen đua với đời.

Người con trai ra đi, vẫy vùng bốn phương cho phỉ chí nam nhi, cũng yên tâm vì có được người vợ hiền ở nhà chăm sóc gia thất, phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi dạy con thơ. Món ăn thanh đạm muối dưa nói lên được cái tình nghĩa sắt son của người đàn bà.

Hơn nữa, người con gái còn mang nặng bổn phận hiếu thảo đối với cha mẹ, kính nhường anh em, giữ hòa khí trong gia đình :

Nhà em có vại cà đồng
Có ao rau muống, có đầy chĩnh tương
Dẫu không mỹ vị cao lương
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em
Một nhà vui vẻ êm đềm
Đói no trong cảnh không thèm lụy ai.

Đối với người thân ta phải có bổn phận đã đành rồi, còn đối với vô số người vô danh trong xã hội đã góp phần vào đời sống công cộng, thì hết lòng tri ân :

Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay tối ngày.

Thái độ biết ơn trên cũng là thái độ cố hữu của người Việt, là bổn phận của người dân được hưởng thụ, vẫn ghi nhớ công đức đối với các bậc tiền bối đã khai sáng đất nước.

4. Khí tiết của miếng ăn

Như vậy, con người lấy nhân nghĩa mà xử sự ở đời, sống phải có trước có sau mặc dầu gặp cảnh nghèo khó, gian khổ phải luôn luôn thủy chung như nhất :

Tay cầm đĩa muối sàng rau
Thủy chung như nhất, sang giàu mặc ai.

Cao hơn nữa, cái khí tiết trung nghĩa được phát lộ trong mấy câu ca dao thời thế sau đây. Trước cám dỗ vật chất, trước những miếng ăn thịnh soạn của tân trào mang lại, con người trung nghĩa quyết cam phận thanh bần :

Văn minh gặp buổi Lang Sa
Tri âm thì ít, trăng hoa thì nhiều
Khuyên ai giữ chí về sau
Đừng còn tập tễnh Tây, Tàu mà no
Thà rằng chịu đói no rau cháo
Lấy chồng nghèo giã gạo nấu cơm
Chẳng hơn thịt cá đầy mâm
Mà đem thân thế ra thân thế này…

Những người tiết nghĩa như vậy bao giờ cũng chọn cái gì trong trắng, cao quý và ghét đời ô trọc gian tham :

Khế rụng bờ ao thanh tao anh lượm
Ngọt như cam sành héo cuống anh chê.

Ai lại không thích ăn sung mặc sướng, sống đời vương giả, đầy đủ và tiện nghi? Tuy nhiên, nếu sống được như vậy mà phải nô lệ tân trào thì trở về với đời sống đạm bạc còn hơn :

Canh cải mà nấu với gừng
Chẳng ăn thì chớ, xin đừng chê bai.

Cũng như người con gái, chống lại chế độ đa thê, thà chịu cảnh nghèo nàn chứ nhất định không chịu lấy chồng chung :

Đói thì ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.

♦♦♦

PHẦN KẾT: GIÁ TRỊ TINH THẦN

Để kết luận, ta thấy miếng ăn diễn tả trong câu ca dao tục ngữ thật là quan trọng, có thể chế ngự được tình cảm và lý trí, chi phối cả đời sống con người, có thể hạ phẩm giá con người cũng như gây xô xát ngoài xã hội. Tuy nhiên, miếng ăn không có giá trị tuyệt đối, chưa phải là cứu cánh cao quý nhất của con người, vì ở đời còn có điều nhân nghĩa, còn có niềm thủy chung là giá trị tinh thần cố hữa quý hóa của người dân Việt :

Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến năm có hạn, biết ai bạn cùng.

Con người phải có hậu, không bắt chước những kẻ “có mới thì nới cũ”, biết trọng nghĩa khinh tài và nhất định không bao giờ :

Xưa nay ăn đâu ở đâu
Bây giờ có bí, chê bầu rằng hôi.

.

Lưu Văn – Tạp chí Tiến thủ - Ảnh: TL-KV sưu tầm

Di sản Sài gòn: Nhà thờ Đức Bà- ảnh: TLV




Một góc nhìn rất đời thường- Ành: Tỷ Lệ Vàng
Lịch sử nhà thờ Đức Bà Sàigòn
Nhà thờ Đức Bà Sàigòn (năm 2007)
Giáo Đường
Tên chính Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội.
- Tôn giáo Công giáo Rôma
- Chức năng Nhà thờ chính tòa
- Quốc gia Việt Nam
- Vùng Tổng Giáo phận Saigon
- Thành phố Saigon
- Địa chỉ Công trường Công xã Paris
- Kiến trúc
-Thiết kế J. Bourad
- Phong cách Kiến trúc Roman
Cao 57 mét (đỉnh thánh giá)
Nhà thờ Đức Bà Saigon, tên chính thức là Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội (Immaculate Conception Cathedral Basilica), là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại Saigon với 2 tháp chuông cao 60 m, tọa lạc tại trung tâm thành phố (Số 1 Công trường Công xã Paris, Quận 1). Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố.
Lịch sử
Ngay sau khi chiếm Saigon, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho tín đồ Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế).
Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một thánh đường bằng gỗ bên bờ "Kinh Lớn" (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng hòa là trụ sở Tòa Tạp tụng). Cố đạo Lefebvre tổ chức "Lễ đặt viên đá đầu tiên" xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của "dinh Thống Đốc" cũ, về sau cải thành chủng viện Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotich đã được chọn.
Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:
• Trên nền Trường thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp).
• Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
• Vị trí hiện nay.
Ngay tại vị trí hiện nay, vẫn từng có dư luận về sự tranh chấp của ba phía: nhà cầm quyền Pháp muốn xây cất một nhà hát ở đây, phía Tin Lành muốn cất nhà thờ Tin Lành và phía Công giáo muốn xây nhà thờ Công giáo. Sau một thời gian tranh chấp, ba bên đành phải bắt thăm.
Riêng phía Công giáo, giám mục Colombert yêu cầu giáo dân toàn giáo phận ăn chay cầu nguyện và xin dâng cho Đức Trinh Nữ Maria lo liệu.

Đến ngày bắt thăm, phía Công giáo bắt thăm trước và trúng thăm, hai phía kia bất bình và yêu cầu bắt thăm lại. Lần này, nhà cầm quyền Pháp dành bắt thăm trước, kế đến phía Tin Lành, nhưng phía Công giáo lại trúng thăm [1].
Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc sư J. Bourad là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.

Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm.
Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành được cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers.
Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư.
Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ.
Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ Nhà nước vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.

Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh
Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo hộ", "khai hóa" cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình đức cha Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "Hai hình" để phân biệt với tượng "Một hình", là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Saigon). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào ở trên.
Năm 1959, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Saigon bấy giờ, đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm.

http://danchuausa.net/giao-hoi-viet-nam/chan-dung-linh-muc-viet-nam-duc-cha-giuse-pham-van-thien/
Khi tượng từ Roma gửi sang Saigon bằng đường thủy, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên cái bệ đài vẫn còn để trống kể từ năm 1945 vào ngày 16 tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy.
Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Saigon để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Ngày 05/12/1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ "xức dầu", tôn phong Nhà thờ Chánh tòa Saigon lên hàng Vương Cung Thánh Đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Saigon.
Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Saigon. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng giám mục Saigon cho đến ngày nay.
Những nét đặc sắc
Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang.
Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.
Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Saigon dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh.
Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất.
Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Saigon - Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133 m, tính từ cửa ngăn đến mút chót của phòng đọc kinh. Chiều ngang của hành lang là 35 m. Chiều cao của thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ.
Ngay sau hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích.
Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là nguyên vẹn như xưa.

Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện.

Ngay phía trên cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh.
Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.

Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol, la, si, đô, rê, mi), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Saigon năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo.
Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 3.150 kg, chuông re nặng 2.194 kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng Sinh.

Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện.
Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30.
Vào ngày lễ và Chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông.
Vào đêm Giáng Sinh thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.

Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống chuông riêng, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được khắc ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên).

Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX
Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH - CẦU CHO CHÚNG TÔI - 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.
Nguồn: http://www.dongthinh.vn/ban-co-biet/120-lich-su-nha-tho-duc-ba-saigon.html

Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

SÀI GÒN NỖI NHỚ KHÔN NGUÔI...

Thằng Cưng, lực lưởng nhanh nhẹn so với số tuổi của nó, khoảng 9, 10 tuổi gì đó mà được lái xe… bò. Mấy thằng bạn đàng em của nó lúc nào cũng tìm cách leo xe bò đi với nó cho vui. Gia đình thằng Cưng cũng thuộc loại khá thời đó, nhà gạch có chái, gian gìữa nhà cũng có bàn thờ tỗ tiên khảm xà cừ đặt sau một bàn gỗ đen với sáu cái ghế và luôn luôn một bình trà đựng trong vỏ trái dừa để giũ' ấm.
Ba nó không biêt làm nghề chuyên chở bằng xe bò từ lúc nào nhưng người trong xóm gọi ông là chú Tư xe bò – Cụ Phó-một nhân vật được mọi người kính nể trong xóm, cụ vào Nam từ Nam Định, nghe nói cụ đã từng giữ chức ông Phó cho hãng tàu đi đại dương của Pháp Charguer Reunis- không hiểu sao lại gọi ông với một danh từ dí dỏm ông Tư “pilot” xe bò. Ba thằng Cưng thỉnh thoảng cho nó lái xe bò ở nhũ'ng khúc đường vắng khi xe không chở gì, chú Tư sống bằng nghề chở vật dụng xây nhà vì đồ nặng không tiện dùng xe ba bánh.
Khi rảnh rối thằng Cưng hay rủ bạn đi tắm sông ở cầu Bình Lợi, trong những nhánh sông nhỏ bao quanh là những rặng dừa nước, nhìn ra phiá xa thì thấy sông Sàigòn. Sông khúc gần cầu Bình Lợi nước chảy xiết, nhiều chỗ nước xoáy, thỉnh thoảng có nghe nguời chết mà người ta gọi là bị ma da kéo. Mấy đám nhỏ thường rủ nhau chơi đá banh ở sân vận động Lê văn Duyệt (giờ không còn nũ'a) thỉnh thoảng lại lén nhà đi tắm sông luôn, phần đông đứa nào cũng biết lội lại dùng bập dừa để nổi nên cũng khá an toàn. Tắm xong chạy về nhà thì quần khô hết nên gia đình không hay biết.


Tuổi thơ trong xóm

Xe bò trên đường Lê Lợi cuối thế kỷ 20

Thằng Cưng thỉnh thoàng theo ba nó “lái xe bò" ra đến Khăn Đen Suối Đờn -một khu xóm đối diện với trường Võ thị Sáu bây gìờ (Lê văn Duyệt cũ), thấy xe “lửa” đậu ở ga Xóm Gà cho người lên xuống là nó ước ao một ngày nào đó nó sẻ lái xe lửa, xe bò chậm quá. Thỉnh thoảng nó đưa má nó ra ga Xóm Gà giúp má nó mang trầu- cây nhà lá vườn” ra chợ Bà Chiểu bán, nhưng thường thì má nó đi xe thổ mộ.
Đường làng 15 (đường Lê Quang Định) lúc bấy gìờ hầu hết chỉ có người đi xe đạp, thỉnh thoảng có vài chiếc mobylette hay xe nhà binh của Pháp chạy qua, lẫn tiếng xe thổ mộ lóc cóc trên đường. Khoảng đầu thập niên 50, phưong tiện di chuyển chính là thổ mộ. Xe thổ mộ (xe làm bằng gỗ có hai bánh cũng bằng gỗ hai bên thùng xe, thường sơn màu nâu đậm rất thịnh hành ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn, Chợ Cầu, Gó Vấp, Bà Chiểu, chợ Đất Hộ (Đakao), Tân Định ra tận đến Sài Gòn. Xe nào cũng có 4 cái mốc, mỗi bên hai cái bên hông xe để người đi treo dép hoặc gồng gánh. Ai đi xe thổ mộ củng phái ngồi xếp bằng, co ro trong thùng xe, xe chật dĩ nhiên chuyện cọ sát với nhau là thường, anh nào còn trai tráng thường phải ngồi phía sau, hoặc ngồi phiá trước đối diện với anh lái xe thổ mộ.
Người đi thường là bạn hàng mang hàng xuống từ Hóc Môn, Bà Điểm, chợ Cầu, trái cây, hoa, rau, trầu cau, thuốc rê Gò Vấp.


Thằng Cưng ngoài tắm sông lén, thỉnh thoảng xuống Gò Vấp đi xem “hát bóng” ở rạp Lạc Xuân, rạp này bên hông chợ Gò Vấp, thường hát phim cũ nên thỉnh thoảng bị đứt phim, nhưng tiền vé rẻ. Mùa nóng xem phim mà cứ đợi nối phim, thiên hạ thường la ó. La thì la vậy chớ đi xem vẫn đi vì rẻ cho dân địa phương.
Trước khi tới quận lỵ Gò Vấp, có ga xóm Thơm (tên địa phương, nhưng cũng gọi là tên ga Gò Vấp). Ga Gò Vấp là một ga nối vì từ ga này đi ra các tỉnh miền Trung, Nha Trang, đi Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, dĩ nhiên đi ra Sàigòn (ngừng tại ga xe lửa Mỹ (Mỹ Tho, cũng gọi là ga Sàigòn, bây giờ là công viên 23/9 gần chợ Bến Thành)-rồi từ ga Saigon đi Chợ Lớn, Bình Tây hay đi Mỹ Tho. Tuyến đường Gò Vấp Sàigòn được đưa vào xử dụng ngày 7/9/1897, lúc đầu chạy bằng nưó'c sau bằng điện, từ năm 1913.
Cũng từ sau 1913, các tuyến đường khác được xây dựng từ Gò Vấp đi Hóc Môn, Gò Vấp đi Lái Thiêu-Thủ dầu Một. Từ chợ Bình Tây Chợ Lớn đi Phú Nhuận-Đakao-Tân Định.


Ga Xóm Thơm (Gò Vấp Xưa, đầu thế kỷ 20)


Chợ Gò Vấp đầu thế kỷ 20


Chợ Gò Váp cuối thập niên 1950
Tuyến xe đi từ Gò Vấp ra Sàigòn qua Ga Đông Nhì, lúc rạp Đông Nhì (cùng chủ với Đại Đồng Nguyễn văn Học và Đại Đồng Cao thắng, Bàn cờ, cũng là chủ rạp Đại Đồng Hà Nội di cư vào Nam, có tài liệu cho biết Đại Đồng Hà Nội là rạp chiếu bóng đầu tiên của người Việt Nam cho người Việt Nam) Rạp Đông Nhì là rạp bình dân, chiếu toàn phim cũ nhưng mới hơn Lạc Xuân, có đặc điểm hát thường trực, lúc nào mua vé vào xem và xem bao lâu cũng được.
Rời Ga Đông Nhì thì đến ga Xóm Gà, ga này có mái che và xây bằng gạch nằm trưóc tiệm tạp hóa chú Xi . Chú Xi , gia đình ngườì Tàu sang Việt Nam đã lâu nên con cái chú ăn mặc theo kiểu Viêt Nam và các con nói tiếng Nam rành rọt, tiệm chú Xi bán tạp hóa nên cái gì cũng có kể cà nước màu (nước đường nấu lên cho có màu nâu đen dùng để kho thịt hay cá.
Sau khi bỏ khách xuống thì xe điện chạy đến ga Bình Hòa, ga này nằm đối diện với cây xăng Bình Hòa hiện tại vẫn còn, mỗi lần xe lửa chạy là có cây chắn ngang hạ xuống chận lưu thông trên đường Nguyễn Văn Học, xe điện tiếp tục chạy qua khu chợ Ngã Tư Bình Hòa, dọc theo đường làng 15-đường Lê quang Định ra Bà Chiểu.
Trước 1960, nơi đây vẫn còn dấu vết ga Bình hòa trên tuyến đường Gò Vấp-chợ Bến Thành
Chợ Bình Hòa tuy nhỏ nay vẫn còn, nhưng mang lại cho Nguyên biết bao kỷ niệm. Bà của Nguyên có một chỗ bán trầu cau, rất nổi tiếng trong chợ, chỗ bà là chỗ duy nhất, mặc dù thỉnh thoảng vẫn có cạnh tranh, ngưới ta gọi bà là “bà Mười bán trầu cau” bà là ngườì rộng lượng và biết cách chiều đãi khách hàng, người buôn bán với bà rất trung thành với bà, có chuyện, bà nghỉ thì họ vào tận nhà để mua. Bà quê Hóc Môn, sản phẩm “mười tám thôn vườn trầu” nên bà có móc nối mua cau, trầu tươi từ Hóc Môn Bà Điểm, mua thuốc lá từ Gò Vấp và cau khô từ những tiệm đại lý ở Chợ Lớn đem về nhà sàng lọc, sắp xếp rồi đem ra chợ. Nguyên thỉnh thoảng đến thăm bà ngoài chợ, bà hay đưa cho Nguyên đem đồ ăn về nhà và mua bánh trái gần đó cho Nguyên ăn, nhất là những món ăn đặc biệt chỉ có bán hôm đó. Có lần chiếc xe đạp của Nguyên đậu gần bà mà cũng bị mất cắp-Chiếc xe đạp với “ghi đông” cao đầu tiên của Nguyên!
Lúc chợ tan, những người bạn hàng bán không hết đồ gạ bán cho bà, trái cây đủ loại, cá cua, rau cải, có khi họ đem tới nhà để đổi trầu cau! Nhà Nguyên vì thế củng ăn thêm món cua luộc hẩu như 2, 3 lần một tuần.
Bà Nguyên hay nuông chiều cháu trai đầu lòng, nên nếu Nguyên bị ba má rầy la thì bà can ngăn, nhưng Nguyên cũng sợ bà vì bà đánh đau lắm.
Bà Nguyên cả đời hy sinh, trong hoàn cảnh luân lý đạo đức khắc nghiệt ngày xưa, bà ở một mình không tái giá mà chẳng có bồ bịch gì từ năm 21-22 tuổi cho đến lúc mất đi đươc 88 tuổi. Niềm an ủi của bà là ba Nguyên và cô Côi-cô có tên Côi vì khi ông Nội Nguyên chết thì cô còn nằm trong bụng mẹ, cô Côi người có đầu óc phóng khoáng, mạo hiểm rồi cũng sang ở luôn bên Pháp năm 1954. Bà mất trong hoàn cảnh cơ cực của gia đình sau cuộc đổi đời 75 không thấy lại Nguyên cũng như cô Nguyên. Một nén hương lòng và sự khâm phục vô bờ của một người cháu ở phương xa
Từ Ngã tư Bình Hòa, nếu ta đi trên đường Nơ trang Long (Nguyễn văn Học) hướng về Thủ Đức và Bình Dương sẽ phải qua ngã Năm Bình Hoà nơi đây đã xày ra cuộc oanh tạc khốc liệt của máy bay trực thăng năm Mậu Thân 68. Ngã năm là giao điểm của hai đường Nơ Trang Long và Phan văn Trị và một đường đi vào xóm Lò Vôi thẳng ra luôn tới rạch nước mà bây gìờ gọi là rạch Bến Bôi. Từ Ngã Năm đưòng Nơ Trang Long đi thẳng qua cầu Băng Ky đến Cầu Bình Lợi.
Đường Nguyễn Văn Học đoạn gần cầu Bình Lợi trước 75 có hãng Vissan-Việt Nam Kỹ nghệ Súc Sản-” sản xuất sản phẩm gia súc theo đường lối dây chuyền và xưởng kỷ nghệ mền len Sakymen (Sài-gòn Kỹ nghệ Mền Len). Từ Nguyền văn Học quẹo trái về Phan Văn Trị hướng Gò Vấp có công ty lớn may dệt Vinatexco.
Đường Phan văn Trị có hai ngôi chùa với đồng mả bao quanh, chùa Thập Phước (Tập Phước) và chùa Bảo An. Hai chùa này cổ này gìờ vẫn còn tuy nhiên đồng mả bao quanh không còn nũ'a và đất chùa bị thu hẹp rất nhiều. Ngày xưa, ban đêm ít ai đến vùng này vì nghe tiếng nhiều ma. Má tôi kể lại chuỵện ngay cả ban trưa, chú tiểu thường thấy bóng người đưa võng cho mình ngủ mà chùa thì vắng lặng chỉ có một mình.


Xe hơi sắp sang Cầu Bình Lợi.
Đường Nơ trang Long (Nguyển văn Học cũ) đi về hướng trường Vẽ, sau này lại đổi nhiều tên khác như Mỹ nghệ thực hành, Cao Đẳng Mỷ Nghệ, rồi sau 75 là trường cao đẳng Mỹ Thuật nằm ngay cuối đường Nơ Trang Long-trên đường Phan Đăng Lưu (Bạch Đằng). Đường Nguyễn văn Học đầu này này có hàng điệp, phượng vỹ xen lẫn với me. Mùa hè đoạn đường rất đẹp vì Điệp, Phượng nở đỏ.
Trên đường này có sân vận động Lê Văn Duyệt (không còn nữa, tiếc thay!) kế đó khu vực nhà thương Nguyển Văn Học, trước 75, khu bịnh viện được xây dựng lại với Viện Ung Thư và bịnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Định. Khoảng năm 64, khu đất kế bên được người Mỹ giúp xây theo mô hình hiện đại làm trung tâm thực tập Y khoa cho Đại học Y khoa Sàigòn, trang bị máy móc tối tân để dạy và trị bệnh, sau đổi thành bệnh viện Gia Định-sau 75 có tên là bệnh viện Nhân dân Gia Định. Viện Ung Thư là cơ quan y tế chuyên về ung thư cho cả nước. Viện Ung Thư nay gọi là Viện Ung Bướu đang trong tình trạng quá tải, nên người dân nói vào cửa trước, ra cửa sau thẳng vào nhà Xác. Thật sự phía sau các bệnh viện này là nhà Xác chung.
Gần sân Vận Động Lê Văn Duyệt, thì có rạp chiếu phim Đại Đồng.


Rạp Đại Đồng không còn chiếu phim nữa, bây giờ là nhà in.
Cạnh rạp Đại Đồng có cả một khu hồ bơi, rất nổi tiếng thời này, có nhiều hồ bơi kích thước khác nhau cho đủ mọi hạng người và cả các quán ăn nhỏ. Khu này đúng ra là một địa điểm giải trí khi xưa- hơn cả hồ tắm Chi Lăng, nếu ai còn nhớ.


Khu bơi lội vẩn còn-nhưng đầy nhà cửa


Đại Đồng đường Cao Thắng

Đầu đường Lê Quang Định đối diện với chợ Bà Chiểu, ở góc đường trường Nam Tỉnh lỵ, có lúc tên là trường Trương Tấn Bửu, những ngày đầu mới khai sinh trường nũ' sinh Lê Văn Duyệt tá túc ở trường này và trường Hồ Ngọc Cẩn trước khi chuyển đến vị trí hôm nay-trên đường Đinh tiên Hoàng (trước 1975 là Lê văn Duyệt) với cái tên xa lạ Võ Thị Sáu.


Trường trung học Hồ Ngọc Cẩn, sau 75 trường tiểu học Nguyển Đình Chiểu
Xe lửa chạy dọc Lê Quang Định ra Bà Chiểu rồi ngừng cho khách lên xuống, tấp nập. Kẻ đi Đất hộ (Dakao), Saigon, người xuống chợ Bà Chiểu, đi thăm Lăng Ông, đi xin xâm vì tin rằng Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt hiển linh.


Ga Bà Chiểu năm 1913

Cuối Lê Quang Định, đối diện chợ Bà Chiểu quẹo trái đi vào đường Hàng Xanh (sau là Bạch Đằng) để đi Thị Nghè hoặc Cầu Sơn Bình Qưới. Nếu đi thẳng là đường Bùi Hửu Nghỉa (xưa là đường Nhà Thờ (Rue de L’Eglise)


Xe điện chạy dọc theo đường Bùi Hửu Nghĩa, Gia Định

Rời ga Bà Chiểu xe lửa chạy dọc hông chợ theo đường Bùi Hửu Nghỉa (l’Eglise), qua khu nhà thờ Bà Chiểu qua cầu Sắt tới Đất hộ (Đa kao) thuộc quận nhất.


Toà Bố-Toà Tham Biện- Gia Định khoảng đầu thế kỷ 20 sau Toà Hành Chánh Gia Định
Cuối đường Lê Quang Định quẹo phải đi đến Toà Bố (Uỷ ban ND Quận Bình Thạnh bây giờ) , đối diện với tòa bố là cửa sau Lăng Tả Quân Lê văn Duyệt, kế đó là chợ Bà Chiểu. Đường Chi Lăng (bây giờ là Phan đăng Lưu) đi ngang trường vẽ (Mỹ Nghệ Thực Hành) đi về hướng Phú Nhuận ngày xưa gọi là đường hàng Keo vì đường này có trồng hàng cây keo và cũng nổi tiếng vì bót công an Hàng keo và trường trung học tư thục Đạt Đức.
Đường Bạch Đằng có tên là Hàng Xanh đi ra hướng Thị Nghè, Cầu Sơn. khúc Cầu Sơn, Bình Qưới xưa là đồng ruộng it ngừo'i ở chỉ có hãng sắt kỹ nghệ của ông Vỏ Hồng Nho (một thời bầu gánh cải lương Trăng Mùa Thu với cô đào chánh Bích Sơn, em cô Bích Thuận) thông ra đến sông Sài gòn. Bây giờ mùa mưa, vùng Thanh Đa, Cầu Sơn, Bình quới thường bị ngập là chuyện khó tránh, vì nước không có chỗ thoát.
Trên đường Bạch Đằng có rạp chiếu bóng Cao Đồng Hưng, rạp này sinh sau đẻ muộn so với rạp Huỳnh Long trên đường Châu Văn Tiếp (nay Vũ Tùng), gần cửa chính của Lăng Ông. Rạp Cao Đồng Hưng trang bị toàn ghế bằng sắt có lỗ nhỏ, phía sau gần cửa vào thì có cả vài hàng ghế cây, học trò Hồ ngọc Cẩn rất “thân quen” với rạp này, đối với Nguyên kỷ niệm là rệp cắn, vì lần ấy rạp CĐH được biến đổi để hát cải lương, vì cô tôi quen với bầu đoàn Thủ Đô nên được mời ngồi hàng ghế đầu, suốt buổi em gái tôi cứ cựa quậy, ngồi không yên, một số người ngối gần có vẻ không vui, tôi hỏi em thì em nói tại rệp cắn, vì em mặc “jupe” , em còn nhỏ nên chả biết gì về cải lương nên cứ ngọ ngậy bắt rệp, rồi tôi cũng thấy rệp cắn, thế là anh em tôi xin phép ra về sớm. Lý do cũng dể hiểu vì, không ai ngồi hàng ghế đầu khi xem phim, thế là rệp tha hồ làm ổ, chổ nào đánh hơi có thịt người là… làm luôn.


Rạp Cao Đồng Hưng bây giờ là tiệm sách Lăng Ông


Lăng Ông 1954, bên phải trước cổng là cây thốt nốt
Cửa chính vào lăng nằm trên đường Chu Văn Tiếp (nay Vũ Tùng) với đặc điểm có trồng hàng cây thốt nốt


Lăng Tả Quân 1970



Mộ Tả quân Lê Văn Duyệt và Phu Nhân Đỗ Thị Phần (trên)
Lăng Ông Tết Tân Mão 2011 (dưới)

Đi xa hơn cổng lăng về hướng chợ Bà Chiểu thì sẽ thấy rạp Huỳnh Long. Đây là một rạp hát bình dân, hay chiếu phim Việt Nam và Ấn Độ. Rạp này lúc chiếu phim Tề Thiên Đại Thánh họ cho đốt nhang ở một góc trước màn chiếu có lẽ vì trong phim có xuất hiện phật bà Quan Âm và Đường Tam Tạng.

Phía Lăng Ông hướng về Đakao, trước khi đến Cầu Bông có một khu vực có cái tên rầt huyền hoặc “Khăn đen Suối Đờn”
Đây là khu xóm ngày xưa đối diện với trường Lê văn Duyệt. Khu xóm này kéo dài đến gần Cầu Bông, chiều ngang từ ranh giới đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng) đến đường Bùi Hửu Nghỉa. Cả khu này và khu trường Lê Văn Duyệt nằm trong khu đất ruộng nên có nhiều cầu ván để đi, chính trường Lê Văn Duyệt cũng nằm trên khu dất bồi để giảm thiểu chuyện ngập nước thường xảy ra trong mùa mưa và do thuỷ triều của rạch Thị Nghè- mà người địa phương vẫn gọi là sông Cầu Bông. Người xưa cho biết nơi đây là nơi buôn bán loại khăn đen làm ở Suối Đờn, tên một khu du lịch nổi tiếng thời trước 1945 ở Thủ Dầu Một (Bình Dương). Loại Khăn Đen Suới Đờn này được dân Nam ưa chuộng, họ đến đại lý ở đây mua hàng, lâu dần truyền khẩu thành khu Khăn Đen Suối Đờn, chớ không có điển tích gì đặc biệt cả.


Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt 2011

Trường Lê Văn Duyệt lúc mới xây xong giống nằm trên một hòn đảo vì hầu như xung quanh trường là ruộng nước. Một hai năm đầu trường chưa cất phải tá túc với trường Nam Tỉnh lỵ (rồi Trương Tấn Bửu) và Hồ Ngọc Cẩn.
Tên Cầu Bông bắc ngang rạch Thị Nghè, nhưng đối với dân xưa ai cũng gọi là sông Cầu Bông không biết do đâu mà có, nhưng có thể ngày xa xưa người ta tụ tập ở bến sông buôn bán bông? Ai là người Saìgòn xưa có lẽ còn nhớ bài này, nhại theo bài Trăng Rụng Xuống Cầu, một thời nổi tiếng với đôi danh ca cũng là cặp vợ chồng ngoài đời Ngọc Cẩm-Nguyễn Hũ'u Thiết:
“Ai đang đi trên cầu Bông,
Té xuống sông ướt cái quần ni lông
Vô đây em dù trời khuya anh vẫn đưa em về“ (hay là: "Vô đây em chờ quần khô kêu xích lô em về.")
Cho tới bây gìờ không ai biết xuất xứ của nó và vì sao, chỉ có điều nặng mùi Nam rặt, bình dân giáo dục nhưng hậu ý tốt.
Qua khỏi cầu Bông là vào quận Nhất, khu Đakao.

Đất Hộ-Đa kao

Đa Kao còn gọi là Đất Hộ, thuộc quận nhất Sàigòn, Đakao có rất nhiều trường tư thục nổi tiếng như Huỳnh Khuơng Ninh (Đường Huỳnh Khương Ninh) giờ vẩn còn, Huỳnh thị Ngà (đường Trần Nhật Duật), Les Lauriers sau đổi tên Tân Thịnh (đường Đinh Công Tráng), Văn Hiến, Việt Nam Học Đường (đường Đặng Tất), trên đường Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mai Thị Lựu ngày xưa có trường chuyên dạy Anh Ngữ Trần Gia Độ, có lẽ mở cùng thời với trường dạy Anh Văn Ziên Hồng của hai anh em Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh ở đường Kỳ Đồng.
Xuống dốc cầu Bông trước khi đến Trần quang Khải có tiệm thịt quay, heo, gà vịt vẫn còn mở đến ngày nay, nhìn xuống sông khoảng thập niên 50s có trại cưa Trần Pháp. Quẹo phải vào đường Trần Quang Khải, phía bên trái có đình thờ với hình ông cọp trên tường và cây da bên trong sân, đối diện xéo một chút là bót TQK và đường hẻm đi vô xóm Vạn Chài, phía ngoài đầu hẻm có trường tư thục Văn Hiến (hiệu trưỏ'ng là Phan Ngô). Kế đó là rạp Văn Hoa và tiệm cà phê Văn Hoa rất thanh lịch kế bên. Rạp Văn Hoa sang trọng, có máy lạnh và hệ thống âm thanh tối tân, màn ảnh lớn nhưng gía rẻ hơn Eden hay Rex.
TQK quẹo vào Nguyễn huy Tự là chợ Đakao, gần chợ có con đường nhỏ Trương Hán Siêu nơi đây có đền thờ của cụ Phan Chu Trinh, đi thẳng PCT băng qua Đinh Tiên Hoàng thì gặp bánh cuốn Tây Hồ, thực sự không có gì đặc biệt nhưng giá bình dân, nơi đây có bán dầu cà cuống.
Nối dài Nguyễn Huy Tự là Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mạc thị Lựu, trên đường này có một chùa cổ, chùa Đakao hay là chùa Ngọc Hoàng.




Chùa Ngọc Hoàng


Chùa Ngọc Hoàng 2011

Nguyển Huy Tự quẹo trái sẻ vào đường Bùi Hũu Nghĩa qua cầu Sắt về Bà Chiểu. Quẹo phải sẽ gặp đường Nguyễn văn Giai băng qua Đinh Tiên Hoàng, gần cuối Nguyễn văn Giai là trường Huỳnh Khương Ninh cuối Nguyễn Văn Giai là Phan Liêm, chạy dọc theo nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (bây gìờ là công viên Lê Văn Tám)
Đoạn Đ T Hoàng giới hạn bởi Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) và Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) có nhà hàng Pháp rất nổi tiếng như Chez Albert, La Cigale và hai quán café nổi tiếng Hân và Duyên Anh.




Casino Saigon không còn nũa: bây giờ chỉ là tiệm bán buôn

Chè Hiển Khánh

Trước 75, nếu ai có đến vùng này nhất là đám sinh viên, học sinh lớn ngày xưa chắc đã đến thăm thường Thạch chè Hiển Khánh, tiệm này nằm sát Casino Đakao, chuyên bán thạch sợi nhỏ trắng với đá bào, chè đậu xanh nấu đặc, chè thạch đựng trong chén nhỏ, nên đôi khi phải gọi chè thạch mới đã, bánh xu xê, bánh gai. Mùa nóng đi đâu về ghé đây là tuyệt, chủ người Nam trung niên lịch sự với khách (đã lâu rồi không nhớ tên được.) Sau 75, có tiệm chè thạch Hiển Khánh ra mắt bà con -goị là Thạch chè nhưng nơi đây bán đủ bánh chè và cũng không phải là chủ xưa.
Qua khỏi Casino Đakao về phía đường Hiền Vương (bây giờ Võ thị Sáu) rồi quẹo phải vào Nguyễn phi Khanh, nơi đây có một quán cơm tấm bì chả nổi tiếng, sau có tiệm bán bún thang Như Ý, đặc biệt có dầu cà cuống. Chỉ cần nhỏ môt hai giọt tinh dầu cũng đủ hương vị. Mùi cà cuống khá mạnh nên không được thông dụng. Cà cuống là một trong những nhóm côn trùng có kích thước lớn nhất hiện nay, có cơ thể dẹt, hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu đất, dài trung bình từ 7-8 cm, có con lên đến 10-12 cm.
Khi còn non cà cuống giống như con gián, mình dài khoảng 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng.
Cà cuống có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài khoảng 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có tuyến này phát triển.
Tinh dầu cà cuống nhẹ hơn nước, cho thoảng ra một mùi đặc biệt gần giống như mùi quế.


cà cuống

Nếu ai muốn thử đến tiệm bánh cuốn Tây Hồ trên góc đường Đinh Tiên Hoàng-Huỳnh Khương Ninh. Bánh cuốn nơi đây được làm tại chỗ nên đông khách. Quán Tây Hồ có từ lâu, trước ở trong khuôn viên đền thờ cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh, nên người ĐaKao gọi là Bánh cuốn Tây Hồ.
Cũng đặt tên như vậy, tiệm mì nổi tiếng Cây Nhãn, lấy tên cây nhãn được trồng trong sân rộng dùng làm tiệm mì đối diện với khu trường tiểu học Đakao.
Phía đầu đuờng Hiền Vương trước khi đến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay Công Viên Lê Văn Tám) Đa kao có đền đức thánh Trần. Những dịp Tết hay giỗ Ông, người ta đổ xô vào lễ, gây trở ngại lưu thông trên đường huyết mạch dẫn vào Ngã Sáu - Công Trường Dân Chủ- Theo các nhà khảo cổ, Công Trường Dân Chủ là vùng Mả Ngụy- Mồ chôn tập thể của những người theo Lê Văn Khôi 1833-1835.


Đền đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo)

Từ đền đức thánh Trần, quẹo trái vào đường Phan Tôn bên hông nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi. Đường Mạc Đĩnh Chi ngày xưa có trạm xe đìện


Xe điện trên đường Mạc Đĩnh Chi, nhìn từ nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi trên đường Phan Thanh Giàn (giờ là Điện Biên Phủ)

Song song với đường Mạc Đĩnh Chi có đường Phùng Khắc Khoan có tư gia tòa Đại Sứ Mỹ. Đây là con đường đẹp với nhiều dinh thự, hai bên đường có hàng me to.
Khu Dakao, trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm có Thảo Cầm Viên và hai trường trung học nối tiếng Võ Trường Toản (nam) và Trưng Vương (nữ).


Trường Trưng Vương


Trường Vỏ Trường Toản
Trên đường Đinh Công Tráng bây gìờ nổi tiếng môn bánh xèo, trước có trường tư thục Tân Thịnh (trước nửa là Les Lauriers), tiệm chụp hình nổi tiếng Văn Minh và Duy Hy (không còn nũ'a)
Xe điện rời ga Đất Hộ (Đakao) chạy dọc theo đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) rồi quẹo vào đường Mạc Đỉnh Chi (rue de Bangkok) ra đường Thống Nhất (Norodom thời Pháp, nay Lê Duẩn) rôí dọc theo Cường Để, Bến Bạch Đằng (nay Tôn Đức Thắng) rồi quẹo vào Hàm Nghi (de la Somme) về chợ Bến Thành.
Ngày xưa dường Phan Đình Phùng nằm cuối khu vực Nguyễn Bỉnh Khiêm (kho đạn cũ, sau lưng đài phát thanh Quân Đội) và kéo dài ra đến đường Lý Thái Tổ (nay Nguyển đình Chiểu) Sô 3 Phan Đình Phùng là đài phát thanh Sàigòn
Đường Đinh Tiên Hoàng bắt đầu từ đường Hồng Thập Tự (bây gìờ là Nguyễn thị Minh Khai + Sô Viết Nghệ Tĩnh) về phiá Đakao có sân vận động Hoa Lư, về phía đường Thống Nhất (Lê Duẩn) có khu đại học trước là thành lính Pháp rôi thành của Lũ' Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống.



Lối vào thành lính Pháp 1873 xây trên thành cổ Gia định (xây 1790) trên đường Cường Để-Đinh Tiên Hoàng



Đường thẳng vào cửa chính là Cường Để (thời Pháp Boulevard Luro, sau 75 là Tôn Đức Thắng, phía trước là đường Norodom -Thống Nhất- sau Lê Duẩn, Kiến trúc bên trái sau 1963 xây dựng lại thành Đại Học Dược Khoa, bên trái là Văn khoa, phía sau hai kiến trúc này là Cao Đẳng Nông Lâm Súc có lúc đổi tên là Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. Nơi đây người ta sẽ tìm thấy sinh họạt chính trị và văn nghệ sôi nổi của một thời sinh viên thập niên 60 và đầu thập niên 70, chúng ta sẻ thấy Khánh Ly, Hoàng oanh, Thanh Lan, Trịnh Công Sơn và các tay lãnh đạo tổng hội Sinh Viên Saigon.


Đại Học Dược Khoa, Cao Đẳng Nông Lâm Súc

Xe điện chạy dọc theo Cường Để qua xưởng Ba Son, xưởng đầu tiên ở Sài Gòn, do Nguyễn Ánh lập ra để đóng chiến thuyền. Xưởng Ba Son nằm trên ngã ba sông, nơi tiếp giáp giữa sông Sài Gòn và rạch Thị Nghè, có diện tích 26 hecta, có đường ven sông 2000m, trong đó có 6 cầu cảng tổng cộng 750m. Ngày xưa nơi đây vùng sình lầy nước đọng nên thường được dùng làm nơi đậu tàu và sửa chữa tàu. Sau khi chiếm được Sài Gòn – Gia Định, năm 1861 Pháp cho làm ụ tàu trên thủy xưởng đã có, tức là mảnh đất Ba Son bây giờ. Ngày 28/4/1863, Pháp chính thức thông qua dự án xây dựng thủy xưởng Ba Son tại Sài Gòn trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Năm 1884, Pháp cho đào và xây ụ lớn bằng đá, chi phí gần 8 vạn quan. Nhiều công nhân người Việt, trong đó có thợ máy Tôn Đức Thắng đã làm việc ở đây.


Xưởng Ba son thời Pháp-sau là Hải Quân Công Xưởng thời VNCH

Xe điện sau khi rời đường Cường Để (Luro thời Pháp, nay Tôn Đức Thắng) đi dọc theo Bến Bạch Đằng, thời Pháp Le Myre de Vilers, nay Tôn Đức Thắng), Công trường Mê Linh, công trường này thời Pháp khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly và Doudard de L’Agree). Thờii VNCH có tượng Hai Bà Trưng. Đây là địa điểm hẹn hò, hóng gió mát từ sông Sàigòn của dân trẻ.


Công Trường Mê Linh, thời Pháp Rigault de Genouilly


Công trường Mê Linh khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly


Tượng Hai bà Trưng thời đệ Nhất Cộng hòa bị phá xập sau 11/1963

Nếu xuống xe điện trạm Mạc Đĩnh Chi bước ra đường Norodom phía rạch Thị Nghè -Thảo Cầm Viên thì gặp Bào Tàng Viện thời Pháp Thuộc nằm trên đường Norodom gần phía đại học Dược khoa trước 75.




Bào Tàng Viện thới Pháp thuộc nằm trên đường Norodom
Con đường lịch sử, tráng lệ và quan trọng nhất miền Nam: Thống Nhất, thời Pháp thuộc gọi là Norodom



Đường Norodom khoảng 1876

Ở hai đầu đường này là Dinh Toàn Quyền và Sở Thú-Thảo Cầm Viên


Dinh Toàn Quyền 1882-xây từ 1868 đến 1875 theo kiểu Baroque thời Napoleon III





Đường Norodom hậu cảnh là Dinh Toàn quyền và tượng Gambetta -thống đốc Nam Kỳ 1906


Nơi có tượng Gambette bây giò' là Bồn Hoa sau lưng nhà thờ Đức Bà 2011


Dinh Toàn Quyền 1908


Dinh Toàn Quyền 1942


Dinh ToànQuyền 1945


Dinh Toàn Quyền 1948


Dinh Độc Lập bị dội bom 1962- Bà Nhu (vợ Ngô Đình Nhu) đang quan sát thiệt hại sau cuộc dội bom của Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử


Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vả chính phủ VNCH xây cất lại 1971


Tấm biển này gắn trên tường của dinh Tổng Thống (nay HT Thống Nhất)
Công Viên Tao Đàn-Vuờn Bồ Rô.
Sau lưng dinh Đôc Lập nay là Hội trường Thống Nhất là công viên Tao Đàn, người xưa gọi là vườn ông Thượng hay là vuờn Bồ-Rô. Ngày xưa cả dinh và vưò'n nằm trong khuôn viên dinh Toàn Quyền. Năm 1869, người Pháp cho xây con đường Miss Clavell (đường Huyền Trân Công Chúa) tách khu vườn khỏi Dinh. Ba mặt còn lại là rue Chasseloup-Laubat (trước 75 là Hồng Thập Tự) về phía bắc, rue Verdun (Trần Cao Vân) về phía tây, và rue Taberd ( Nguyển Du) về phía nam. Người Pháp gọi khu vườn là “Jardin de la Ville” hay Jardin Maurice Long (Toàn quyền Pháp)




Trong khuôn viên vườn có khu Câu lạc bộ Thể thao (Cercle Sportif Saigonais) năm 1902 gồm sân đá banh (túc cầu hay bóng đá), hồ bơi, và sân quần vợt. Sân đá banh đó lúc bấy giờ là sân duy nhất đủ tiêu chuẩn đón những đội banh ngoại quốc đến, người viết đã có dịp xem trận đá đèn giũ'a đội AJS Saigon và đội banh người Áo (Austria), lâu quá không còn nhớ đến kết quả nhưng kỷ niệm này vẫn hằn sâu trong tâm tưởng.
Tiện đây cũng nên biết trường trung học đầu tiên được pháp xây dựng gọi là Chasseloup-Laubat nằm trên đường Chasseloup Laubat (trước 75 Hồng Thập Tự, sau 75 Nguyễn thị Minh Khai) sau đổi thành Jean Jacques Rousseau rời Lê Quý Đôn tới ngày nay.


Trường Chasseloup-Laubat thời Pháp

trường này chắc nhiều anh chi VCF chắc hồi xưa có hoc qua





Trường Lê Quý Đôn

Tưởng cũng nên nhắc lại trên đường Phan Đình Phùng (nay Điện Biên Phủ) có trường nữ trung học đầu tiên ở Sàigòn-trường Gia long được xây cất 1913, xưa gọi là trường áo tím, vì nũ' sinh mặc áo dài máu tím đi học. Trường thay đổi nhiều tên chính thức nhưng người Việt luôn gọi là trường Gia Long.


Trường Gia Long đầu thập niên 1920


Trường NTMK 2011

Đi về phía Đông Nam (phiá đường Lê Lợi) la 2 hai toà nhà lịch sử quan trọng. Pháp Đình Saigòn- còn gọi là toà Thượng thẩm Sàig̀on nằm trên đường Công Lý (nay Nam Kỳ Khởi Nghĩa)


Pháp Đình Sàigòn trên đường Công Lý (nay Nam Kỳ Khởi Nghĩa)
Góc đường Công Lý và Gia long có dinh Gia long, nơi đây là chỗ ở dành cho thượng khách viếng thăm VNCH, trước đó là dinh thự của Thủ Hiến Cochinchina


Dinh Gia Long thời Pháp


Trước 75, dinh Gia Long được dùng làm trụ sở Tối Cao Pháp Viện

Thảo Cầm Viên-Sở Thú

Sở Thú nằm trên đường Nguyên Bỉnh Khiêm, cuối đường Thống Nhất (Lê Duẩn) về phía Đông, đối diện với dinh Toàn Quyến


Bên trong khuôn viên của Thảo Cầm Viên có Viện Bảo Tàng Quốc Gia và đền thờ Hùng Vương

Thảo Cầm Viên cạnh rạch Thị Nghè (Arroyo de l’Avalance)


Chuồng Gấu- Sở Thú thời Pháp thuộc 1912


Voi trong sở thú


Đền Thờ Vua Hùng Vương trong Thảo Cầm Viên thập niên 60


Bảo tàng Viện trong Thảo Cầm Viên thập niên 60

Trên đường -Thống Nhất- LD về phía dinh Độc Lập (nay Hội trường Thống nhất) có nhà thờ Đức Bà được bắt đầu xây dựng năm 1877 và được khánh thành 1880, nhưng mãi đến năm 1895 mới xây thêm hai tháp chuông.



Người Pháp cho xây tượng đồng Giám Mục Pigneau de Béhaine (Adran) và hoàng tử Cảnh .



Quang cảnh Nhà thờ đức Bà

Nhà Thờ Đức Bà thập niên 1940- Garage Jean Comte nằm trên đường Norodom sau đối thành Saigon Xe hơi công ty. Ngày nay là tòa nhà thương mãi Diamond Plaza


Saigòn xe hơi công ty trước 75.
Bên hông nhà thờ là Bưu Điện Saigòn thời Pháp.




Phía trước nhà thờ Đức Bà có Tượng Bá Đa Lộc (giám mục D’ Adran) và Hoàng tử Cảnh hướng về đường Tự Do (nay Đồng Khởi) được đặt tại đây 1902, bên tay phải giơ bản hiệp ước Versailles 1787, bảo đảm viện trợ của nước Pháp cho vua Gia Long.

Phiá sau nhà thờ Đức bà có bùng binh và tượng Gambetta


Bùng binh và tượng Gambetta trên đường Norodom

Tượng Gambetta trên đường Norodom, mặt quay về phía sau lưng của nhà thờ Đức bà, phía sau lưng của Gambetta là đường Duy Tân (nay Phạm Ngọc Thạch). Con Đường “Trả lại em yêu” Duy Tân cây dài bóng mát của một thời sinh viên thơ mộng, mơ mộng. Nơi đây có hồ Con Rùa, có Viện Đại Học Saìgon, đại học Luật khoa, nơi Tô Lai Chánh đã từng làm chủ tịch sinh viên Liên khoa trong biến cố đau buồn của lịch sử Việt Nam 1963.


Hồ Con Rùa thời Pháp thuộc đầu thế kỷ 20


Hồ Con Rùa 1968


Hồ con Rùa 2010
Sau khi ghé thăm con đường lịch sử Norodom-Thống Nhất, chúng ta trở lại trạm xe điện trên đường Mạc Đĩnh Chi để ra chợ Bến Thành,
Xe điện chạy dọc theo Cường Để, dọc theo bến Bạch Đằng (nay T ĐT) quẹo phải vào đường Hàm Nghi (De La Somme), chạy ngang trước chợ Bến Thành rồi về ga Saìgòn.


Ga Sài Gòn 1881


Đường xe lửa trước chợ Charner tiền thân của chợ Bến Thành (thập niên 1880) nằm trên đường Nguyễn Huệ (Charner)


Bên trong ga Sàigòn khoảng thập niên 1910


Đường rầy xe điện trước chợ Bến Thành và sở Hỏa Xa Đông Dương


Xe lửa chạy trên đường Hàm Nghi (de La Somme) vào trước chợ Bến Thành rồi quẹo trái vào ga Saigon, bây giờ là khu công viên 23/9


Đường xe điện trước chợ Bến Thành


Dấu tích đường xe điện trên đường Trần Hưng Đạo thời đệ Nhất Cộng Hoà trước 1963 (nhìn về phía chợ Bến Thành )

Từ ga Saigon cũng có tuyến đường chạy đến chợ Phú Nhuận, Chợ Tân Định. Đường rầy xe điện trong ảnh đi cạnh tòa nhà Quốc Hội trước 75, chạy từ đường Nguyển Huệ (Charner) Bonnard )


Xe điện quẹo mặt vào đường Nguyển Huệ từ Bến Bạch Đằng


Từ ga Saigon còn gọi là ga xe lưả Mỹ đi Mỹ Tho) có tuyến đường đi Chợ Lớn –Bình Tây, đi Mỹ Tho


Từ ga Chợ Lớn đi về ga Sàigòn


Đường rầy xe lửa-lớn nhỏ trên đường Hàm Nghi


Một góc cạnh khác của tuyến đường Hàm Nghi, là tramway (xe điện nhỏ) chạy quanh từ chợ Sàigòn dọc Hàm Nghi xuống bến Bạch Đằng qua công trường Mê Linh sau tòa Nhà Quốc Hội (nhà Hát Thành Phố bây giờ) dọc theo đường Lê Lợi (Bonnard).



Đường rầy ở công trường Mê linh


Chạy ngang Nhà Hát Thành Phố


Xe điện chạy từ đường Lê Lợi (Bonard) ra chợ Bến Thành khoảng 1901

Xuống ga Sàigòn đi về đường Lê Lợi, con đường tình sử, con đường xưa em (anh) đi, con đường của những buớc chân chiều chủ nhật và thành ngữ bát phố. Chiếu cuối tuần nào cũng thế là chiều của riêng minh, của học sinh sinh viên, của em hậu phương anh tiền tuyền, của những tà áo như cánh bướm muôn màu, của những bộ đồng phục chải chuốt, của mọi người không phân biệt giai cấp của quán kem Mai Hưong, Bạch Đằng, Pole Nord, của nước miá Viễn Đông hay chỉ một vòng ngắm cảnh.
Trưóc 75, cơ sở nghĩ từ trưa thứ bảy, chiều nào thiên hạ cũng đổ xô ra đường, mỗi người tìm vui trong cái ồn ào náo nhiệt cho riêng mình. Thú vui tùy túi tiền, ngay cả hoà mình vào dòng người bát phố chỉ cần một cây kem hay môt ly nước mia, kẻ vào nhà hàng Thanh Thế, Kim sơn, Thanh Bạc , kẻ giàu sang có máu mặt vào Continental, Caravelle, kẻ ngắm nhìn mẫu hàng mới trong Passage Eden để ước mơ, để ước gì mua được tặng nàng.


thời Pháp Thuộc, địa điểm nhà hàng Caravelle là khách sạn Terrasse


Nhà Hàng Continental thời Pháp Thuộc 1931

Cũng có những người tìm vui trong sách vở với nhà sách Khai Trí, Vĩnh Bảo trên đường Lê Lợi, hay nhà sách Xuân Thu đường Tự Do. Nhà sách này chuyên bán những loại sách đặc biệt, sách ngọại quốc, nhà sách có gắn máy lạnh, giá cao, khách lai vãng thường là người ngoại quốc hoặc dân sang, thời Pháp thuộc nơi đây là tiệm thuốc Tây Pharmacie Normal. Sinh Viên học sinh có chút vốn Anh ngũ' thì vào thư viện Abraham Lincoln ở góc đường Nguyển Huệ và Lê Lợi vừa thoải đọc sách vì thư viện có gắn máy lạnh. Vào thời pháp chổ này là hãng vừa bán và sửa xe hiệu Citroen Bannier (1930)



tiệm thuốc Tây Pharmacie Normal (nay nhà sách Xuân Thu đường Tự Do)




Thư viện Abraham Lincoln góc Nguyễn Huệ-Lê Lợi, trước đó nhà bán và sửa xe Citroen Bannier

Cùng phía băng qua đường thì có thương xá GMC, sau là thương Xá TAX


Thương Xá Tax thời Pháp trước 1948


Thương xá TAX khoảng 1966 với tiệm kem có máy lạnh Pole Nord
Đầu đường Nguyễn Huệ (Charner) có dinh Xã Tây-sau 1954 gọi là Tòa Đô Chánh


Dinh Xã Tây khoảng đầu thế kỷ 20.


Dinh Xã Tây 1908


Toà Đô Chánh 1955

Toà Đô Chánh 1955 và ông Trần Văn Hương là vị Đô Trưởng đầu tiên. Cũng nên nhắc lại cụ Trần văn Hương là chính trị gia sanh ở Vĩnh Long nổi tiếng thanh liêm và trong sạch, Trần Văn Hương là cựu thủ tướng hai lần (1964–1965 và i 1968–1969), sau đó phó tổng thống (thời tổng thống Nguyển văn Thiệu (1971-1975, và rồi tổng thống 7 ngày 21/4/75 đến 28/4/75. Sau 30/4/75 Ông nhất định ở lại Saigon, không chịu xuất ngoại tỵ nạn chính trị và chết ở Sàigòn năm 1982.)



Tòa Đô Chánh (nay Uỷ Ban Nhân Dân TPSG) 2011

Từ tòa Đô Chánh nhìn ra bồn nước, bên trái có rạp chiếu bóng Eden, bên phải có rạp Rex
Giới sành điệu, ký giả người lịch lãm thì vào Givral ở góc đường Lê Lợi- Tự Do hoặc Brodard trên đường Tự Do (đồng Khởi) hay La pagoda góc đường Tự Do- Lê Thánh Tôn.


Brodard thập niên 60



Quán Brodard trước ở Góc đường Tự Do (nay Đồng Khởi) và Nguyển Văn Thinh (nay Mạc Thị Bưởi), sau này dời vào Mạc thị Bưởi không còn giữ được danh tiếng ngày xưa (bánh không ngon như xưa. Địa điểm ở góc đường bây gìờ là Gloria Jeans )


Pharmacie principale Solirene, nay là Givral 2009

Địa điểm Pharmacie principale Solirene là tiệm thuốc Tây đầu tiên ở Saigon, về sau là nhà hàng Givral, cùng với nhà hàng khách sạn Continental, hai địa điểm nằm ở góc đường Tự Do và Lê Lợi, nổi tiếng trên thế gìới vì đây là nbửng nơi lai vãng của bao nhiêu danh nhân, ký giả, những nguời lịch lãm khắp nơi ghé bến Saigon, thời ấy được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông.

Givral khoảng 2000, nay 2011 đả bị phá hủy để làm trung tâm thương mại

Góc Tự Do –Lam Sơn (Place Garnier) có Khách sạn nổi tiếng Caravelle khánh thành 12/1959, thời Pháp gọi là Terrasse hotel, thập niên 1960 thời VNCH nơi đây là toà Đại sứ Úc, Tân Tây Lan và trụ sở của NBC, ABC và CBS hãng truyền hình Mỹ.


Terrasse hotel thời Pháp nay Caravelle


Khách sạn Caravelle khánh thành 12/1959


Nhà hàng La Pagode góc đường Tự Do Lê Thánh Tôn


Trước mặt Givral là toà nhà hát thành phố thời Pháp xây năm 1900 được VNCH dùng làm Quốc Hội Hạ Viện nơi đã chứng kiến bao cảnh thăng trấm của một chế độ dân chủ phôi thai


Hạ Viện thời VNCH, thời Pháp Opera de ville

Phía trưóc Hạ Viện (nhà hát thành phố) có một vườn hoa (thời Pháp gọi là Place Francis Garnierm công trường Lam Sơn), thời VNCH có bức tượng đài tưởng niệm Thủy Quân Lục Chiến, nhưng bị phá hủy sau 30/4/75.


đài tưởng niệm Thủy Quân Lục Chiến, nơi trung tá Long đã tư sát ngày đau thương 30/4/1975

Đi qua khỏi vườn hoa, trở lại đường Nguyển Huệ, ngày xưa đường này là kinh đào có tên là Kinh Lớn chạy từ sông Saigòn đến phía trước cùa dinh Xã Tây

Kinh đào nằm trước Chợ Charner, gọi là Kinh Lớn vận chuyển cung cấp thực phẩm hàng hóa cho Sàigòn được xây năm 1860


Kinh Lớn phía trước chợ Charner, chạy dài đến trước dinh xã Tây góc trên trái


Năm 1887 Kinh Lớn bị lấp đi thành đường Kinh Lấp, sau đó đổi tên thành đuờng Charner


Chợ Charner vào thập niên 1890
Chợ Charner vào thập niên 1890 có đường xe lửa chạy bằng hơi nước đi qua, địa điểm nằm giữa đường Ngô Đức Kế và Hải Triều (ngày xưa người Quảng Đông buôn bán tập trung ở đây đông)
Figure 109 Quang cảnh chợ Mới-chợ Sài Gòn Bến Thành.



Thay thế chợ Charner, người Pháp cho xây dựng chợ Bến Thành từ năm 1912-1914 ở địa điểm ngày nay, xưa là một vùng ao xình lầy được lấp, ảnh trên chụp khoảng thập niên 1920. Phía trước là quảng trường Cuniac (tên ngưới Pháp lo chuyện lấp ao lập chợ) nguời Sàigòn thường gọi chợ này là chợ Sàigòn và bùng binh Sàigòn mặc dù cũng gọi chợ Bến Thành nhưng không gọi bùng binh Bến Thành bao giờ.

 Sưu tầm...