Hiển thị các bài đăng có nhãn bài. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bài. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

Bộ sưu tập của TLV: bài của các hãng hàng không




thấy bà con đi chơi khí thế quá nên mình tranh thủ post bộ này lên, hy vọng bạn bè, chiến hữu có đi hãng nào lạ hơn thì nhớ đến mình, rinh tặng (hoặc mua giúp) mình 1 bộ nhé- cám ơn cám ơn.
(các bộ này đa số xin sẽ được các cô tiếp viên vui vẻ tặng ngay...trừ 1 số hãng hàng không giá rẻ)

Thứ Hai, 2 tháng 4, 2012

“Vua” bài Tây

Có lẽ ngay từ buổi đầu đam mê và yêu thích sưu tầm bài Tây từ 25 năm trước, thạc sĩ, kiến trúc sư Nguyễn Văn Châu không hề nghĩ đến việc giờ đây anh lại sở hữu một bộ sưu tập lớn như thế về loại hình này.

Vua bài Tây
Vua bài Tây

1. Từng là Phó chủ tịch Hội kiến trúc trẻ TP.HCM, giành được nhiều giải thưởng thiết kế về kiến trúc, Nguyễn Văn Châu hiện là chủ một doanh nghiệp. Anh có khuôn mặt thân thiện, nụ cười đôn hậu, phong cách nói chuyện sôi nổi, rất cuốn hút người nghe.

Trò chuyện với Châu, có cảm giác anh là một nhà khoa học, rất đam mê với nghề, chứ ít ai biết được sâu thẳm trong tầm hồn anh lại có một đam mê mãnh liệt khác: Thú sưu tầm các bộ bài Tây.

Mà thú sưu tầm các bộ bài Tây cũng đến một cách tình cờ với Châu. Hay nói cách khác nó giống như cái duyên trời định, sự run rủi của số phận. Hỏi về thú sưu tầm tưởng như tao nhã, nhưng lại rất công phu này, anh Châu cho biết: “Vào năm 1986, khi đó tôi còn đang là học sinh cuối cấp 2, trên truyền hình có chiếu bộ phim Tây Du Ký rất hấp dẫn và thu hút người xem.

Do nhu cầu thị trường, nên người ta tung ra bộ bài Tây có in hành các nhân vật Tôn Ngộ Không, Chư Bát Giới, Sa Tăng, Đường Đăng, Bạch Cốt Tinh… Tôi cũng mua một bộ về làm làm kỷ niệm. Thỉnh thoảng đem bộ bài ra xem, niềm đam mê ngấm vào người từ lúc nào không biết và thú sưu tầm bài Tây bắt đầu nhen nhóm trong tôi.

3 năm sau, trong một lần Nguyễn Văn Châu vào hiệu sách, anh tình cờ thấy bộ bài Tây in hình phong cảnh các tỉnh thành ở Việt Nam. Lật giở bộ bài xem, Châu thấy cảnh Tháp rùa in hình trên sóng nước lung linh của hồ Gươm ở Hà Nội, rồi rừng thông Đà Lạt trải dài trùng trùng điệp điệp, cầu Tràng Tiền trên dòng sông Hương thơ mộng ở Huế, hay trụ sở Ủy ban nhân dân TP.HCM với kiến trúc độc đáo.

Trên mỗi lá bài là một danh lam thắng cảnh với vẻ đẹp đặc sắc, mê hồn của nước ta. Thú sưu tầm bài Tây bắt đầu nhen nhóm trong Châu ngày nào như được tiếp lửa, bắt đầu bùng cháy khi anh mua bộ bài Tây này.

Kể từ năm 1986 ấy, 26 năm đã trôi qua tính từ ngày Nguyễn Văn Châu mua được bộ bài có in hình các nhân vật trong Tây Du Ký, anh đã sưu tầm được 800 bộ bài Tây của nhiều quốc gia trên thế giới. Hỏi Châu sao có nhiều loại hình khác về sưu tầm cũng hấp dẫn, sao anh lại đi mê bài Tây?

Anh cười hiền hậu: Nói về sưu tầm thì rất rộng, dường như không có giới hạn và có rất nhiều loại hình như sưu tầm tem, tiền cổ, đồ cổ…, nhưng không hiểu trời xui đất khiến thế nào, nên tôi thấy cái này hay và tôi đi theo.

Đúng là thú sưu tầm bài Tây hay như Ngyễn Văn Châu nói. Bởi nó không chỉ mang ý nghĩa về văn hóa, về lịch sử hay giải trí đơn thuần. Mỗi một bộ bài Tây là một cuốn sách thu nhỏ, kể chuyện bằng hình ảnh, đề cập đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nhân loại. Tiếp cận các bộ bài của anh Châu, người xem có cảm giác như đó là một bảo tàng và được chạm vào nhiều điều hết sức ấn tượng và rất thú vị.

Đáng nói, do là kiến trúc sư nên Nguyễn Văn Châu còn mua không ít các bộ bài có liên quan đến lĩnh vực kiến trúc, đồ họa. Đó là bộ bài về một nhà thờ ở Barcelona, Tây Ban Nha, hay những hòn đá kỳ lạ được biết đến dưới cái tên kỳ quan Stonehenge nổi tiếng xứ sở sương mù.

Về kiến trúc, Nguyễn Văn Châu còn có bộ bài về lịch sử kênh đào Panama sản xuất từ năm 1926. Xem các quân bài, chúng ta thấy những hình ảnh từ những ngày đầu công trình vĩ đại này từ ngày khởi công, cho đến khi khánh thành và đưa vào khai thác. Tất cả đều được thể hiện bằng những hình ảnh đẹp, rõ nét trên lá bài. Hơn thế, cách trang trí của bộ bài này rất đài các, khác lạ: Mỗi lá bài được phủ lớp nhũ đồng, trông rất đẹp và tạo nên dáng dấp cổ xưa...

2. Để có được bộ sưu tập đồ sộ như thế này, ngoài niềm đam mê mãnh liệt còn phải là sự hao tổn về tâm lực. Có những bộ bài Tây giá cả không đáng bao nhiêu, nhưng để có được chúng là cả một sự kỳ công.

Phần lớn các bộ bài đều được anh Châu tìm kiếm, đấu giá và đặt mua trên mạng. Anh tự nhận mình là một trong những người tham gia dịch vụ mua bán qua mạng internet đầu tiên của Việt Nam. Thông qua dịch vụ này anh có cơ hội làm quen và kết bạn với nhiều người cùng sở thích.

Họ là những người tốt bụng, nhiệt tình, nhiều lúc đứng ra thu mua giúp anh rồi gửi cho anh theo đường bưu điện. Dù vậy, không ít lần các bộ bài đó lại phải trả về nơi người gửi vì quy định bài Tây của ta là phương tiện cờ bạc nên không được nhập khẩu vào Việt Nam. Những lần như thế, Châu cố gắng giải thích đó là thú sưu tầm, là nghệ thuật, rồi mang ý nghĩa văn hóa, nhưng cũng thể “vượt” qua các quy định của pháp luật.

ảnh minh hoạ
ảnh minh hoạ

Cũng có những bộ bài Tây có giá trị quý hiếm, Nguyễn Văn Châu mua trong những dịp tham gia hội thảo, đi du lịch ở nước ngoài. Để tiết kiệm tiền và tiết kiệm thời gian, Châu mang theo bên mình bịch ruốc ăn kèm ổ bánh mì, ăn nhanh để thăm thú, chiêm ngưỡng và săn lùng bài Tây.

Có lẽ, khi mới bắt đầu sưu tầm bài Tây, Nguyễn Văn Châu thấy có bô bài nào hay đều cố mua bằng được. Nhưng sau một thời gian anh bắt đầu định hướng sưu tầm những bộ bài mang tính nghệ thuật cao. Hay anh sưu tầm những bộ bài đặc biệt, khác lạ. Có bộ bài giữ nguyên kiểu dáng truyền thống, nhưng cũng có bộ bài thiết kế biến tấu theo hình tròn, hình tam giác trong rất lạ.

Ở khía cạnh khác, chất liệu nhiều khi cũng làm nên giá trị của bộ bài Tây. Chẳng hạn anh Châu có bộ bài làm bằng giấy Papyrus có màu ngà ngà của Ai Cập, in hình ảnh con người và các phong tục, tập quán nơi đây. Hay những bộ bài đặc biệt, như bộ bài các tòa nhà cao tầng của thế giới, được đựng trong các vỏ bằng thiếc.

Với khối lượng bài đồ sộ như thế, Nguyễn Văn Châu phải phân loại và sắp xếp rất khoa học. Anh cho biết, đầu tiên là phải xắp xếp theo thời gian và giá trị lịch sử. Hay sắp xếp theo chủ đề. Chẳng hạn, với kiến trúc là những bộ bài sưu tập về chủ đề công trình kiến trúc lớn, đặc sắc trên thế giới. Từ Vạn Lý trường thành, sân vận động Tổ Chim phục vụ Olympic 2008, đến các tòa cao ốc của thành phố New York, kiến trúc độc đáo của thành Rome, Veince, Barcelona, Kim Tự Tháp…

Hay có thể phân loại các bộ bài theo đề tài thú vị và “độc”. Ví dụ, đó là bộ bài về các loại huân huy chương của một đất nước nào đấy hoặc là các kiểu trang phục sinh hoạt của các tộc người, thổ dân da đỏ… Xem các bộ bài này là được tiếp cận với một câu chuyện lịch sử được trình bày sắc nét,
sinh động, đầy tính nghệ thuật. Ngay cả về nghệ thuật ẩm thực cũng có bộ bài trình bày các món cocktail kèm theo cả công thức và cách chế biến. Đó chính là cuốn cẩm nang thu gọn về cocktail mà bất cứ ai muốn cũng có thể thực hành.

“Độc” nhất trong các bộ sưu tập của Nguyễn Văn Châu là các bộ bài về đề tài chính khách, danh nhân. Các bộ bài này lưu lại tất cả các đời Tổng thống Mỹ từ xưa đến nay, hay gương mặt của các ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc. Ngoài ra, còn có 2 bộ hí họa các chính khách nổi tiếng trên thế giới cùng bộ sưu tập chân dung hí họa chính khách của Alfonso Ortuno, một nhà báo nổi tiếng ở xứ sở đấu bò… Các bộ bài của Nguyễn Văn Châu là một thế giới rộng mở mà ở đó người xem càng khám phá càng mê đắm.

Mạnh Quang

nguồn: http://phapluatvn.vn/giai-tri/trochuyen/201204/Vua-bai-Tay-2065338/

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Sòng bạc xa hoa nhất thế giới

Aria là khu sòng bạc nằm trong quần thể resort City Center rộng lớn tại Las Vegas (Mỹ) và được coi casino xa xỉ nhất trong số các “chiếu bạc” nổi tiếng của thế giới.
> 10 casino xa xỉ nhất thế giới
> 6 tỷ USD và điều kiện người Việt vào casino

Từ khi mới xây dựng, City Center đã được ví như một xã hội thu nhỏ, trong đó có casino Aria với 61 tầng với 4 khách sạn, 4004 phòng, 42 nhà hàng, quán bar, hộp đêm, một spa và một nhà hát. Ảnh: Coinflip.com.
Từ khi mới xây dựng, City Center đã được ví như một xã hội thu nhỏ, trong đó có casino Aria với 61 tầng, 4 khách sạn 4004 phòng, 42 nhà hàng, quán bar, hộp đêm, một spa và một nhà hát. Ảnh: Coinflip.com.
Kinh phí đầu tư toàn bộ quần thể lên tới 9 tỷ USD và là dự án tư nhân đắt nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Cổng vào của sòng bạc Aria.
Đường vào phòng chơi bài lớn nhất của Aria có nội thất cầu kỳ và dàn ánh sáng lấp lánh.
Phòng chơi bài chính của Aria thiết kế với những lối đi uốn lượn mềm mại và không gian mở. Ảnh: Spas.about.com.
Một khu chơi bài VIP trong Aria. Ảnh: Guardian.
Đoạn hành lang vào sảnh phòng chơi bài baccarat, sàn nhà như một tấm gương khổng lồ phản chiếu cả tường và trần.
Công trình do kiến trúc sư nổi tiếng Cesar Pelli thiết kế và khánh thành vào cuối năm 2009.
Sảnh khu vực chơi bài baccarat được trang hoàng bằng những cột trụ lớn làm từ đá và gọt giũa tinh tế.
Trần nhà nổi kết hợp hệ thống ánh sáng phản chiếu từ tường của khu vực chơi Poker làm sòng bạc lộng lẫy như một cung điện. Ảnh: Vegastripping.com.

 

Bên trong casino xa hoa nhất thế giới còn có quầy bar chuyên phục vụ các “tay chơi” cần nghỉ ngơi hoặc du khách tham quan.
Một trong số những nhà hàng sang trọng nằm cạnh sòng bạc Aria, City Center.
Ngoài “đỏ đen”, các tay chơi còn được tận hưởng cuộc sống giàu có và thư giãn tại Haze, hộp đêm của casino. Haze hiện do tập đoàn Light quản lý với nội thất sang trọng, dịch vụ cao cấp, công nghệ hiện đại cùng hệ thống âm thanh hàng đầu thế giới cho cuộc sống về đêm tại Las Vegas. Thời gian mở cửa hộp đêm này bắt đầu từ 22 giờ 30 phút cho tới 4 giờ sáng hôm sau. Ảnh: Vegasgoodbuys.com.
Lối vào khu vực spa dành cho những vị khách có nhu cầu làm đẹp và chăm sóc bản thân. Spa tại Aria cũng là một trong những điểm nhấn thu hút du khách khi đến thăm sòng bạc. Ảnh: Santafetravelers.com.
Phòng spa nằm bên trong City Center.
Một phòng spa khác bên trong khu resort của sòng bạc.
Gần khu vực casino còn có nhà hát Cirque du Soleil's Viva ELVIS.
Nơi đây chuyên biểu diễn các tiết mục xiếc nhào lộn điêu luyện, thậm chí nhà hát còn tổ chức những cuộc thi lớn mang tầm cỡ quốc gia như American Idol. Ảnh: Lasvegassun.com.
Kiến trúc nhà hát nhìn từ trên cao. Ảnh: Arialasvegas.com.
Bên trong casino xa hoa nhất thế giới còn có quầy bar chuyên phục vụ các “tay chơi” cần nghỉ ngơi hoặc du khách tham quan.
Một trong số những nhà hàng sang trọng nằm cạnh sòng bạc Aria, City Center.
Ngoài “đỏ đen”, các tay chơi còn được tận hưởng cuộc sống giàu có và thư giãn tại Haze, hộp đêm của casino. Haze hiện do tập đoàn Light quản lý với nội thất sang trọng, dịch vụ cao cấp, công nghệ hiện đại cùng hệ thống âm thanh hàng đầu thế giới cho cuộc sống về đêm tại Las Vegas. Thời gian mở cửa hộp đêm này bắt đầu từ 22 giờ 30 phút cho tới 4 giờ sáng hôm sau. Ảnh: Vegasgoodbuys.com.
Lối vào khu vực spa dành cho những vị khách có nhu cầu làm đẹp và chăm sóc bản thân. Spa tại Aria cũng là một trong những điểm nhấn thu hút du khách khi đến thăm sòng bạc. Ảnh: Santafetravelers.com.
Phòng spa nằm bên trong City Center.
Một phòng spa khác bên trong khu resort của sòng bạc.
Gần khu vực casino còn có nhà hát Cirque du Soleil's Viva ELVIS.
Nơi đây chuyên biểu diễn các tiết mục xiếc nhào lộn điêu luyện, thậm chí nhà hát còn tổ chức những cuộc thi lớn mang tầm cỡ quốc gia như American Idol. Ảnh: Lasvegassun.com.
Kiến trúc nhà hát nhìn từ trên cao. Ảnh: Arialasvegas.com.
Bên trong casino xa hoa nhất thế giới còn có quầy bar chuyên phục vụ các “tay chơi” cần nghỉ ngơi hoặc du khách tham quan.
Một trong số những nhà hàng sang trọng nằm cạnh sòng bạc Aria, City Center.
Ngoài “đỏ đen”, các tay chơi còn được tận hưởng cuộc sống giàu có và thư giãn tại Haze, hộp đêm của casino. Haze hiện do tập đoàn Light quản lý với nội thất sang trọng, dịch vụ cao cấp, công nghệ hiện đại cùng hệ thống âm thanh hàng đầu thế giới cho cuộc sống về đêm tại Las Vegas. Thời gian mở cửa hộp đêm này bắt đầu từ 22 giờ 30 phút cho tới 4 giờ sáng hôm sau. Ảnh: Vegasgoodbuys.com.
Lối vào khu vực spa dành cho những vị khách có nhu cầu làm đẹp và chăm sóc bản thân. Spa tại Aria cũng là một trong những điểm nhấn thu hút du khách khi đến thăm sòng bạc. Ảnh: Santafetravelers.com.
Phòng spa nằm bên trong City Center.
Một phòng spa khác bên trong khu resort của sòng bạc.
Gần khu vực casino còn có nhà hát Cirque du Soleil's Viva ELVIS.
Nơi đây chuyên biểu diễn các tiết mục xiếc nhào lộn điêu luyện, thậm chí nhà hát còn tổ chức những cuộc thi lớn mang tầm cỡ quốc gia như American Idol. Ảnh: Lasvegassun.com.
Kiến trúc nhà hát nhìn từ trên cao. Ảnh: Arialasvegas.com.

Tường Vi (tổng hợp)

nguồn: http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/quoc-te/2012/02/song-bac-xa-hoa-nhat-the-gioi/

xem thêm: http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/quoc-te/2012/02/ben-trong-10-casino-xa-xi-nhat-the-gioi/

http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/quoc-te/2012/02/song-bac-xa-hoa-nhat-the-gioi/page_1.asp

http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/quoc-te/2012/02/ben-trong-10-casino-xa-xi-nhat-the-gioi/page_2.asp

 

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012

Nguồn gốc bộ Bài Chòi

Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè bài tới/ Cơm chưa kịp xới/ Trầu chưa kịp têm...

Tao đánh ba đêm

Thua ba tiền rưỡi

Về nhà chồng chửi

“Thằng Móc, thằng Quăn

Đánh sao không ăn

Mà thua lắm bấy?”

Tui lấy tiền cấy cho đủ mười ngày

Bảy Thưa, Bảy Dày

Cũng là ngạt kéo

Chị em khéo léo

Dễ mượn dễ vay...

(...)

Ăn thì tui vùa

Thua thì tui chịu

Bài Tới và bài Chòi

Bạch Tuyết - Thái Tử - Ông Ầm

Các dị bản của bài vè Bài tới trên đây phổ biến từ Bình Trị Thiên cho đến Nam bộ. Điều này đã chỉ ra không gian lưu hành của trò chơi đánh Bài Tới. Một thực tế cũng đáng lưu ý là mặc dù Bài Tới phổ biến khắp Nam Trung như vậy, nhưng Bài Chòi lại không phổ biến ở Nam bộ.

Điều này chỉ ra rằng Bài Chòi là trò chơi xuất hiện muộn mằn, bởi vì nếu Bài Chòi xuất hiện từ thế thế kỷ 17-18 thì nó đã theo chân lưu dân Thuận Quảng vào vùng đất phương Nam như Bài Tới, Hát Bội, Hát Sắc Bùa... Các sự kiện trên đã xác lập cái khung không gian - thời gian của Bài Chòi để làm cơ sở cho việc truy nguyên căn cội của bộ Bài Chòi - cũng là bộ bài dùng để chơi Bài Tới.

Yêu

Bài tới, theo định nghĩa của Huỳnh Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quấc âm tự vị (1896, T. II, tr 455), là “thứ bài bắt cặp, ai bắt được đủ cặp trước thì gọi là tới, nghĩa là đến trước, rồi cũng được ăn tiền”. Chúng ta không có cứ liệu nào để xác định thời điểm ra đời của bài tới, nhưng trò chơi bài bạc này trong bối cảnh phong hóa cộng đồng cũng đã phát triển theo qui luật trình thức hóa và công cộng hóa để thành Bài Chòi.

Từ cờ tướng với hai người chơi đã tích hợp nhiều yếu tố trình diễn biến thành trò chơi Cờ Bỏi, Cờ Người diễn ra ở sân đình chùa, những nơi sinh hoạt văn hóa lễ hội của cộng đồng nói chung. Đây là một ví dụ. Từ bài Tổ Tôm, bài Tam Cúc biến thành Tổ Tôm điếm là những ví dụ khác. Ở đây, bài tới đã tích hợp với ca nhạc, với chòi/điếm với rạp/sân khấu... để trở thành trò chơi Bài Chòi hấp dẫn. Bài Chòi phát triển mạnh đến mức lấn át danh tiếng và cách chơi khác nhiều so với Bài Tới, nhưng về bộ bài để chơi Bài Chòi lại là bộ Bài Tới - không đổi thay gì.

Bài Tới - Bài Chòi - Tổ Tôm

Bộ Bài Tới/ Bài Chòi có 60 con bài, chia làm ba pho (văn, vạn, sách), mỗi pho có chín cặp và ba cặp Yêu: Ông Ầm, Thái Tử, Bạch Tuyết. Tùy từng địa phương, các con bài được gọi khác nhau. Con bài làm bằng giấy bồi, hình chữ nhật (2x8,5cm), in một mặt (mộc bản) đồ án biểu trưng cho con bài và lưng phết màu đỏ sẫm.

Do sự giống nhau của bộ Bài Chòi (từ đây hiểu là Bài Tới) và bộ bài Tổ Tôm ở chỗ cả hai loại bài đều chia làm ba pho Văn, Vạn, Sách và ba con bài Yêu nên không ít nhà nghiên cứu đã khẳng định mối quan hệ nguồn gốc của Bài Chòi với bài Tổ Tôm. Thật ra đồ hình của các con bài tương ứng giữa Bài Chòi và bài Tổ Tôm có nhiều khác biệt: bài Tổ Tôm vẽ đa số 26/30 là hình người Nhật Bản (đầu, mình, tứ chi, dụng cụ cầm tay, vác vai và thêm vào đó là hình tháp (con Ngũ Vạn), cá (con Bát Vạn), trái đào (con Nhị Vạn), thuyền buồm (con Ngũ Sách).

Còn ở bộ Bài Chòi/Bài Tới thì đồ án trang trí mang tính trừu tượng và hình người trừu tượng, chủ yếu là bán thân hay mặt người (chiếm 11/30 con bài). Dù vết của con bài Tổ Tôm ở bộ Bài Chòi/Bài Tới là các biểu tượng và chữ Hán xác định số thứ tự của con bài.

- Chữ Hán: từ chữ Nhất đến chữ Cửu trên chín con bài của pho Vạn; và các chữ ghi tên ba con bài Yêu: Ông Ầm, Thái Tử và Bạch Huê (Bạch Tuyết).

- Biểu trưng có hai loại: 1/ Hình tròn nhỏ có chấm ở giữa  (tạm gọi là “nút”, hiểu là nút chỉ số điểm của mặt súc sắc/cũng có thể hiểu là đồng tiền điếu) và hình tượng đồng tiền điếu  (hoặc một đồng nguyên/tròn giữa vuông hay một nửa đồng tiền/bán nguyệt)

- Biểu tượng “phức nghĩa”, đặc biệt là các đồ hình trên chín con bài của pho Sách là đối tượng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và theo đó có những biện giải khác nhau. Chẳng hạn như con bài Nọc đượng (có tên gọi khác: Nọc thược, Nhất nọc), được gán cho hình vẽ dương vật và cho rằng nó có nguồn gốc từ Linga của người Chăm. Theo đó, con bài Bạch Huê (Bạch Tuyết) lại được coi là âm vật, Yoni (Chăm).

Thế là từ cặp Yoni - Linga ấy, một số nhà nghiên cứu cho rằng Bài Chòi có gốc gác chi đó với người Chăm, văn hóa Chăm! Thậm chí từ đồ hình tên con bài Ba Gà, người ta đẩy nó về với hình khắc trên trống đồng Đông Sơn... Các biện giải uyên bác quá mức này chủ yếu dựa vào sự diễn dịch chủ quan và sự đối chiếu có tính chất liên tưởng mông lung. Thật ra, cách gọi tên con bài của bộ Bài Chòi/Bài Tới của dân gian là phương “coi mặt, đặt tên” - tức dựa trên hình tướng đặc trưng nào đó của hình họa mà gọi tên. Và như vậy, trực quan là có thể phân biệt các con bài.

Khi xưa, chưa có chữ quốc ngữ Latin, chữ Hán - Nôm cũng không phổ cập, người bình dân không phải ai cũng đọc được chữ Hán - Nôm in trên con bài, thì các biểu tượng “nút” và “đồng tiền điếu” có chức năng chỉ số (nhất đến cửu) cho các con bài pho Văn và pho Sách. Ví dụ: Chín gối (hình 9 nút), Hai tiền (hình 2 đồng tiền), Nọc đượng (1 nút), Nhì nghèo (2 nút), Ba gà (3 nút), Tứ gióng (4 nút)... Đó là các ký hiệu cơ bản để phân biệt các con bài của bộ Bài Chòi/Bài Tới.

Còn đồ hình ở pho Sách là hình vẽ các chồng/xâu tiền điếu cộng với dải uốn cong như hình con rắn thật ra để chỉ rõ chúng thuộc pho Sách. Sách, chữ Hán có nghĩa là dây. Hình vẽ Sách/Dây này là một trong các bằng chứng tương đối rõ ràng nhất mối quan hệ giữa Bài Chòi/Bài Tới với Tổ Tôm. Người chơi Tổ Tôm bình dân không đọc được chữ Hán, ai cũng thuộc câu “Vạn vuông, văn chéo, sách lằng ngoằng”.

Một bằng chứng khác là con bài Bạch Huê (Bạch Tuyết) của Bài Chòi/Bài Tới tương ứng với con bài Thang Thang của bài Tổ Tôm và tên gọi Bạch Huê (Bạch Tuyết) có lẽ bắt nguồn từ hình vẽ trên con Thang Thang là người phụ nữ cho con bú: để lộ “nhũ huê” trắng bóc! Nói cách khác, đặc điểm “gợi cảm” nhất của hình vẽ trên con Thang Thang đã được dân chơi bài... gọi một cách trắng trợn là Bạch Huê (Bạch Tuyết) không liên hệ gì đến cái Yoni thiêng liêng của người Chăm.

Nói chung, tuy có một số điểm tương đồng giữa bộ Bài Chòi/ Bài Tới và bộ bài Tổ Tôm, song muốn tường tận hơn thì phải đối chiếu với các loại bài giấy (chỉ bài) khác, đặc biệt là các loại bài gốc từ Diệp tử mã điếu của Trung Quốc.

Diệp tử mã điếu và toàn đối (Đông Quan bài)

1. Hình thức cờ bạc phổ biến nhất ở Trung Quốc thời cổ là gieo súc sắc. Ngoài súc sắc, hình thức cờ bạc tương đối quan trọng khác là bài xương, ra đời vào niên hiệu Tuyên Hòa thời Bắc Tống. Bài xương (hoặc ngà) biến thái từ súc sắc, trên mặt mỗi con bài là do hai mặt súc sắc kết hợp lại thành các con bài có điểm (nút) lớn nhỏ khác nhau. Đó là cội nguồn của các hình nút (hình tròn nhỏ có chấm ở giữa) trên một số con bài của bộ Bài Chòi/Bài Tới đã nói ở phần trên.

Ngoài bài xương/bài ngà, ở Trung Quốc còn phổ biến bài giấy. Thời cổ gọi là Diệp tử (xuất hiện từ thời Đường), đến đời Minh, Thanh trò chơi bài lá này đặc biệt thịnh hành. Diệp tử có hai loại: 1/ Diệp tử in theo điểm số của bài xương in ra, ở giữa in một số hình tượng nhân vật trong Hí khúc hoặc Thủy hử (đây là thứ phiên bản của bài xương, nhưng nhờ đổi từ xương sang giấy nên phổ biến rộng rãi hơn bài xương vì dễ chế tác, giá thành thấp); 2/ Loại thứ hai là loại bài Mã điếu diệp tử: làm bằng giấy, rộng 1 tấc, dài 3 tấc (tấc # 3cm) dùng nhiều lớp giấy bồi rồi in lên. Loại bài này có 40 lá, hoa sắc/hình họa chia làm bốn môn/pho:

- Thập tự (chữ “Thập”) có 11 lá, trên mỗi lá vẽ hình nhân vật trong Thủy hử: Tống Giang (lá Tôn Vạn Vạn quan), Võ Tòng (lá Thiên Vạn), Nguyễn Tiểu Ngũ (Bách Vạn), Nguyễn Tiểu Thất (Cửu Thập), Chu Đồng (Bát Thập)... Hổ Tam Nương (Nhị Thập).

- Vạn tự (chữ “Vạn”) có chín lá, trên mỗi lá cũng vẽ hình các nhân vật trong Thủy hử: Lôi Hoành (lá Tôn cửu vạn quan), Sách Siêu (Bát vạn), Tần Minh (Thất vạn), Sử Tiến (Lục vạn), Lý Tuấn (Ngũ vạn), Sài Tiến (Tứ vạn), Quan Thắng (Tam vạn), Hoa Vinh (Nhị vạn), Yến Thanh (Nhất vạn).

- Sách tự (chữ “Sách”) có chín lá, trên mỗi lá vẽ quan tiền: Lá Tôn Cửu sách (vẽ 4 chồng, mỗi chồng 2 quan, một quan nằm riêng), lá Bát sách (vẽ 4 chồng, mỗi chồng 2 quan), lá Thất sách (vẽ 3 chồng mỗi chồng 2 quan, một quan nằm riêng), lá Lục sách (như 2 cây cầu trên bộ dưới nước), lá Ngũ sách (hình như quẻ Cấn), lá Tứ sách (hình như 2 vòng ngọc), lá Tam sách (hình như chữ “phẩm”), lá Nhị sách (hình như “quẻ Chấn”?), lá Nhất sách (hình như “cái chĩa”).

- Văn tiền có 11 lá, phía trên vẽ các loại đồ hình: lá Tôn không một văn (vẽ hình “Ba tư tiến bảo”), lá Bán văn (hình hoa quả), lá Nhất tiền (hình như Thái cực), lá Nhị tiền (hình trống “yêu cổ”), lá Tam tiền (hình quẻ Càn), lá Tứ tiền (vẽ hình như vòng móc vào nhau), lá Ngũ tiền (vẽ hình Ngũ nhạc: 5 ngọn núi lớn), lá Lục tiền (vẽ hình như quẻ Khôn), lá Thất tiền (vẽ hình như chòm sao Bắc đẩu), lá Bát tiền (vẽ hình “Ngọc côi”), lá Cửu tiền (vẽ hình ba ngọn núi chồng lên nhau).

Bài Mã điếu lưu hành từ niên hiệu Vạn Lịch thời Minh, đến đời nhà Thanh biến đổi thành bài Mặc Hòa, chỉ còn lại 3 môn/pho là Vạn tự, Sách tự và Văn tiền. Cách đánh bài: 4 người một sòng, mỗi người rút 10 lá bài, tổ hợp 3, 4 lá cùng pho làm một bộ (hiểu là ghép từ 3 lá trở lên của các con bài cùng một pho, giống như “phu dọc” trong chơi tổ tôm; hoặc giống như “sảnh” trong chơi xập xám hay phé/bài tây), hoặc tổ hợp giống như “phu bí” trong chơi tổ tôm, tức ghép 3 lá cùng số (nhất, nhị... cửu) thuộc cả 3 pho. Người tổ hợp đủ ba bộ/phu là thắng.

Ngoài bài Mặc Hòa còn có các loại biến thể khác như Đấu Hổ, Chỉ Trương.

- Đấu hổ: Dùng 30 lá bài của Mã Điếu, bỏ đi 9 lá thuộc pho Thập tự, chỉ lưu lại lá Thiên Vạn (hình Võ Tòng).

- Chỉ trương là bài giấy mạt chược, hình thành từ cơ sở bài Mã Điếu, cũng bảo lưu 3 pho Vạn, Sách, Tiền nhưng đổi: Sách làm Điều, Tiền làm Bính; và cũng đổi tên một số lá bài.

Những dữ liệu về loại bài Diệp tử mã điếu đã chỉ ra mối quan hệ của loại bài này với bài Tổ Tôm và Bài Chòi/Bài Tới, đặc biệt là các biến thể của Diệp tử mã điếu là các loại bài Mặc hòa, Đấu hổ, Chỉ trương có số lá con bài, cơ cấu ba môn/pho Văn, Vạn, Sách và đồ hình tương đồng về phần “lý” với bộ Bài Chòi/Bài Tới của xứ ta.

2. Đông Quan bài, còn gọi là bài Toàn đối, vốn xuất xứ và phổ biến ở quận Đông Quan (Quảng Đông, Trung Quốc). Bộ bài này gồm 120 lá bài (30 quân bài x 4), cũng chia làm 3 pho văn, vạn, sách (mỗi pho 9 quân bài) và ba con bài lẻ/đặc biệt: Đại hồng, Tiểu hồng và Bát xuyến. Các quân bài thuộc ba pho đều mang số từ 1 đến 9. Hình họa pho văn và pho sách cũng dùng hình quan tiền và nút làm biểu tượng chỉ số điểm. Riêng pho vạn vẽ hình nhân vật, trên mỗi lá bài có ghi số điểm bằng chữ Hán (Nhất, Nhị, Tam... Cửu). Cách chơi bài Toàn Đối tuy có khác ở chỗ tích hợp “đối” (đôi) và “cạ” (cùng số khác pho), song đại thể rất giống cách chơi Bài Tới.

Bài Tới/Bài Chòi

Đông Quan bài

Văn

Vạn

Sách

Nhận xét và kết luận

1. Về mặt đồ hình, mối quan hệ của Bài Chòi/Bài Tới với loại bài Diệp tử mã điếu và đặc biệt là bài Đông Quan (Toàn Đối) là rõ ràng hơn và trực tiếp hơn so với bài Tổ Tôm.

- Biểu tượng nút (vòng tròn có chấm ở giữa) trên các con bài Chín Gối, Nọc đượng, Nhì nghèo, Ba gà, Tứ gióng, Năm dày, Sáu hột, Bảy sưa, Tám giây, Đỏ mỏ... vốn là ký hiệu số điểm của hột súc sắc.

- Biểu tượng tiền điếu (nguyên đồng hay một nửa đồng tiền điếu) trên các con bài Trường hai, Trường ba, Tứ tượng (Voi/Dái voi), Ngũ rún, Sáu tiền, Bảy liễu (4 nửa đồng tiền + 2 nút + 1 vòng xoáy trôn ốc), Tám tiền, Chín cu (Xe/Chín gan: 6 nửa đồng tiền + 3 nút)... vốn là hình họa các quan tiền thấy trong pho “Sách tự” của Diệp tử mã điếu và bài Toàn Đối.

- Các hình họa đa dạng với các hình ngang ngắn (giống cái xúc xích hay bó bánh tét...) tạo nên các hình tướng khác nhau của các con bài Nọc đượng, Nhì nghèo, Ba gà, Tứ gióng, Năm dày, Sáu hột, Bảy sưa, Tám giây, Đỏ mỏ... dường như vốn là hình vẽ những chồng/xâu tiền đồng mà ta thấy trên các con bài Tôn cửu sách, Bát sách, Thất sách của loại Diệp tử mã điếu đã nói trên hay cụ thể là pho sách của bài Toàn Đối.

Cần nhắc lại rằng họa tiết uốn lượn như con rắn trên một số con bài (Nọc đượng, Nhì nghèo...) là để chỉ chúng thuộc pho Sách (Sách: dây lằng ngoằng và có thể là sợi dây để xâu tiền đồng). Do cách phối trí các chồng/xâu tiền và các nút, cộng thêm dây/rắn nên đồ án trang trí/gợi liên tưởng hình dáng của một vật (Nọc đượng), con vật (Ba gà), đồ vật (Tứ gióng) hay tính chất của hình họa (dày, thưa)...

- Các con bài thuộc pho Vạn: 1/ Có chữ viết (Hán tự) chỉ tên con bài; 2/ Bán thân người; 3/ Đồ án trang trí (dưới cùng). Ở các con bài này, hình bán thân người hẳn bắt nguồn từ nhân vật Hí khúc hay nhân vật của truyện Thủy hử, thuộc pho Vạn tự của bài Diệp tử mã điếu và Toàn Đối nói trên. Đại thể, mặt người ở các con bài này (của Bài Chòi/Bài Tới) trong chừng mực nào đó là Mặt tuồng/Hát bội - loại hình “Hí khúc” chiếm vị trí thống trị một thời ở các tỉnh Trung bộ, nơi Bài Tới/Bài Chòi thịnh hành. Đặc trưng nhất là đôi mắt xếch rất tuồng và đặc trưng khu biệt là khăn, mũ đội đầu như Học trò (Nhất trò) đội khăn, Cửu chùa (thầy) đội mũ Tì lư...

2/ Bài Diệp tử mã điếu (bốn pho) lưu hành thời Minh, đến thời Thanh biến đổi thành bài Mặc Hòa, Đấu hổ, Chỉ trương (3 pho) và Toàn Đối. Điều này cho phép đoán định niên đại ra đời của Bài Tới ở xứ ta sớm nhất là trong thời Thanh (giữa thế kỷ 17 về sau) và như đã nói, trong hành trang văn hóa của lưu dân Thuận Quảng vào khai phá vùng đất Nam bộ không thấy có Bài Chòi. Điều này cho phép đoán định thêm là Bài Chòi chỉ ra đời sớm nhất là cuối thế kỷ 18, tức sau khi kết thúc cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh.

3. Một vấn đề khác có liên quan là nguồn gốc hình họa của bộ bài Tổ Tôm. Vấn đề được đặt ra: tất cả những hình họa trên con bài Tổ Tôm đều là “đặc trưng Nhật Bản rõ rệt, nhất là tất cả các nhân vật đều mặc kimono (tước vật) thời Edo (Giang Hộ), trong số này có 18 đàn ông (có 8 người bó chân), 4 hình phụ nữ và 4 hình trẻ em.

Các hình cá chép (koi, lý), trái đào (mono), thành (shiro), thuyền (fune) cũng là những hình ảnh Nhật” (5). Thế nhưng loại bài Tổ Tôm này “chỉ có người Việt chơi, người Nhật không chơi, người Hoa cũng không chơi (trừ một số ít Hoa kiều ở VN)” (6). Ý kiến trên có 2 câu hỏi: 1/ Nguồn gốc bộ bài Tổ Tôm và 2/ Nguồn gốc và hình họa của bộ bài này?

Như đã trình bày, bài Tổ Tôm có gốc từ loại bài biến thể của Diệp tử mã điếu - xét ở cơ cấu, số lượng, tên gọi... Còn câu hỏi thứ hai, theo các cứ liệu lịch sử, chúng ta có thể giả định là các hình họa đó do một nghệ nhân/họa sĩ người Nhật sống ở Hội An thực hiện và in ấn bán ra thị trường Đàng Trong, dựa trên qui phạm của loại bài Mặc Hòa (hay Đấu hổ) vốn đã phổ biến trước đó. Giả thiết này được hỗ trợ bởi cứ liệu ngữ âm phương ngữ xứ Quảng: âm “am” được đọc thành “ôm”.

Loại bài biến thể từ Diệp tử mã điếu vốn được gọi là Tụ Tam (hiểu theo nghĩa là luật chơi dựa vào sự tích hợp 3 con bài theo hàng ngang hay hàng dọc) được dân xứ Quảng gọi theo ngữ âm đặc trưng của mình thành “Tổ Tôm”. Chỉ có người Quảng mới có thể đọc “tam” thành “tôm”. Nói cách khác, bài Tổ Tôm phải chăng xuất hiện đầu tiên ở Quảng Nam, cụ thể là Hội An, theo “maquette” của nhà tạo mẫu người Nhật ở phố Nhật Bản Hội An thực hiện. 

HUỲNH NGỌC TRẢNG - NGUYỄN ĐẠI PHÚC

nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/188402/Nguon-goc-bo-Bai-Choi.html

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

120131- Bài đầu năm.




cám ơn 3 người ( bạn, người anh) đã giúp mình có được 3 bộ bài này dịp đầu năm :-)

Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2012

Đầu năm, đổ một ván Xăm hường

MỘT TRÒ CHƠI TAO NHÃ VÀ VUI VẺ TRONG NGÀY TẾT

CỦA NGƯỜI DÂN XỨ HUẾ VÀ CÁC XỨ CẬN HUẾ

Sáng mồng 7 tháng giêng năm Đinh Hợi, tôi đang chiên mấy miếng bánh tét thì nghe vợ tôi gọi với xuống từ lầu 1:” anh Đoàn ơi ! Xăm hường trong chương trình VTV1 của truyền hình VN”. Tôi vội bật TV, vừa kịp lúc phóng viên đang phỏng vấn 1 người dân sống ở phố cổ Hội An, người này bảo rằng trò chơi Xăm Hường là một trò chơi của người Tàu, được du nhập vào VN do người Minh Hương (Việt gốc Tàu) từ rất lâu. Cả phóng viên lẫn người được phỏng vấn đều sai, với một phát biểu trên phương tiện truyền thông dễ gây ra ngộ nhận. Phát biểu đó mang tính võ đoán và thiếu căn cứ.

Theo tôi, trò chơi Xăm Hường được  bày ra để làm trò tiêu khiển trong nội cung Triều Nguyễn. Sau đó, các quan lại và những người trong Nguyễn Phước Tộc, mang trò chơi này ra ngoài cung và trò chơi trở nên phổ biến từ thành thị đến nông thôn Huế và Thừa Thiên.

Bộ xăm hường ở Ngọc Sơn Công chúa từ đường

Người dân các xứ Quảng (Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi) cũng có những gia đình chơi trò Xăm Hường nhưng rất ít. Những gia đình này có thể là người gốc Huế hoặc có dây mơ rễ má gì với người Huế. Hoặc giả, trong dòng tộc có người làm quan trong triều đình Huế, hoặc giả họ là bà con dâu rễ với người Huế.

Vào trong Nam hay ngoài Bắc, trò chơi này hoàn toàn lạ lẫm. Như vậy, trò chơi Xăm Hường ví như vết dầu loang, trò chơi từ cung đình Huế lan ra khắp Huế và Thừa Thiên rồi tỏa ra các vùng xứ Quảng, rồi thôi. Những vùng xa như Bình Định, Phú Yên trở vào đến Cà Mau, từ Quảng Bình trở ra Bắc hầu như chẳng ai biết trò chơi này.

Trở lại bài phỏng vấn về Xăm Hường trên VTV1, bảo rằng Xăm Hường có nguồn gốc từ Trung Quốc là không có căn cứ vì nếu vậy trò chơi phải để lại một dấu vết nào đó trong các tác phẩm văn học. Chẳng có dấu vết nào.

Nếu người Minh Hương đem trò chơi này du nhập vào Việt Nam thì không cứ gì có người Minh Hương ở Hội An chơi trò này mà người Minh Hương ở Chợ Lớn là một cộng đồng người Hoa rất rộng lớn lại không biết trò chơi này? Dòng họ Mạc Thiên Tích lập nghiệp ở Hà Tiên ắc cũng phải đem trò chơi thú vị này du nhập chứ sao lại không nhỉ?

Bộ xăm hường bằng ngà voi của vua Tự Đức

Để chứng minh thêm trò chơi Xăm Hường phát sinh từ nội cung triều Nguyễn, tôi dẫn ra đây 2 chứng cứ:

  1. Nếu phát sinh từ các triều vua trước ở Thăng Long, thì với mức thẩm thấu của trò chơi này, ít nhất là người ở Đông Đô Hà Nội phải có người biết.

  2. Tên gọi trò chơi là tên gọi thuần Việt “XĂM HƯỜNG”. Tên gọi này chỉ ra việc từ chữ Hồng nói trại ra thành chữ Hường. Đây là lối nói tránh những từ húy kỵ rất phổ biến ở Huế như chữ cửa Đông Hoa nói trại tha`nh cửa Đông Ba vì chữ Hoa là chữ húy kỵ đối với vua. Chắc chắn là những người ở Hội An không thể nói tên gọi của trò chơi này theo một cách gọi của người Tàu (ví dụ như Đoạt Khôi Nguyên Đồng Khánh chi cục chẳng hạn ) mà chỉ có thể gọi một cách thuần Việt và Huế đặc là Xăm Hường.

  3. Trò chơi Xăm Hường chắc là được bày ra sau đời vua Minh Mạng. Để thiết lập một nền quân chủ kỷ cương, ông vua văn võ song toàn này lập ra những bài thiệu 4 câu 5 chữ để phân biệt dòng chính và dòng thứ trong Nguyễn Phước Tộc. Mà dòng đích (chính hệ) là:

Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh

Bảo Quý Định Long Trường

Hiền Năng Kham Kế Thuật

Thế Thoại Quốc Gia Xương

            Những dòng thứ (bàng hệ) có những bài thiệu khác.

Như vậy gọi là Hường để tránh chữ Hồng là chữ phạm húy.

                                  *   *   *

Nhân đây tôi xin trình bày thêm về trò chơi Xăm Hường, một trò chơi phù hợp với niềm hân hoan của con người trong 3 ngày tết, phù hợp với việc tạo một không khí ấm cúng, đầy tình thương yêu gắn bó các thành viên trong gia đình,bằng hữu từ già tới trẻ ai chơi cũng được, cũng vui, thậm chí người không biết luật vẫn ngồi vào chơi được như thường.

Người ta thường chơi Xăm Hường trong mấy ngày tết, có kéo dài lắm thì cũng đến hết mùng thì thôi. Đây là một trò chơi tao nhã vì không ai dùng Xăm Hường để sát phạt. Hầu như không có tiếng cãi cọ, cay cú trong lúc chơi Xăm Hường, chỉ có tiếng cười vui rộn rã hòa với tiếng leng keng vui tai của nạm hột súc sắc xoay tròn trong tô kiểu cùng tiếng lách cách của những thẻ hường va chạm nhau.

Số lượng người tham dự trò chơi này có thể lên đến 12 người hay nhiều hơn nữa nếu chúng ta biết cách chơi. Do đó, Xăm Hường rất phù hợp với không khí gia đình chung vui trong ba ngày tết.

Chẳng ai chơi Xăm Hường mà tính chuyện gian lận vì không ai có thể điều khiển được một lúc 6 hột súc sắc. Tính minh bạch của trò chơi rất cao, 6 hột bày ra rõ ràng trước bao nhiêu cặp mắt nên người không biết tí gì về Xăm Hường cũng có thể ngồi vào chơi thoải mái, chỉ cần thả hột vào tô thì có người đọc và lượm thẻ giúp. Chỉ qua vài ba ván là biết được luật chơi liền.

Nhiều người tin rằng chơi Xăm Hường như một cách bói quẻ tốt xấu đầu năm. Trong cuộc chơi, ai lấy được Trạng anh (Trạng Nguyên), Trạng em (Bảng Nhãn, Thám Hoa) nhiều lần thì chắc cả năm danh tài đắc lợi, công việc hanh thông, thăng tiến. Trước ăn sau thua thì đầu năm tốt, nữa năm về sau xấu và nếu trước thua sau ăn thì ngược lại tiền hung hậu cát.

Nếu bị cướp trạng thì coi chừng những điều xui rủi, công việc gãy đỗ giữa chừng.

Hên nhất là ngũ hường đoạt tam khôi, cướp một lúc 3 ông trạng chắc là trong năm có cơ hội hoạnh phát tài lộc. Khó nhất là lục phú, tức là 6 hột súc sắc cùng hiện ra một mặt giống nhau. Vì là cực kỳ khó nên người ta tin rằng điều quá tốt hiển hiện thì có sự việc quá xấu tiềm ẩn.

Bàn về trò chơi Xăm Hường:

Có lẽ nhiều người chơi Xăm Hường thắc mắc vì sao người bày ra trò chơi này lại lấy mặt tứ (bốn) làm chuẩn của trò chơi, trong khi mặt nhất (một) cũng đẹp và cũng có màu đỏ.

Theo tôi, trò chơi mang tinh thần khuyến học. Vào thời quân chủ, người ta học hành theo lối từ chương với mục đích kiếm một chổ trong chốn quan trường. Muốn ra làm quan thì người học phải qua các kỳ thi Hương để đổ Tú Tài, kỳ thi Hội để đổ Cử Nhân và kỳ thi Đình để đậu đạt Tiến Sĩ.

Trong trò chơi Xăm Hường cũng có các cấp đỗ đạt như vậy mà phần thưởng cho người chơi là những thẻ xăm hường, trong đó cao nhất là Trạng Nguyên.

Vì là chốn quan trường nên cung quan là chủ đạo của trò chơi.

Trong quẻ Dịch có 6 hào từ sơ hào đến hào thượng. Sáu mặt của hột súc sắc (nhất - nhì - tam - tứ - ngũ - lục) tương ứng với 6 hào. Trong 6 hào của quẻ dịch thì hào 6 là ngôi trời, hào 5 là ngôi vua (cửu ngũ) và hào 4 là ngôi quan nên người bày ra trò chơi này lấy mặt tứ làm chủ đạo cho trò chơi. Mặt tứ có màu đỏ vừa vuông vắn, vừa đẹp lại vừa có ý nghĩa được gọi là Hường.

Người bày ra trò chơi dựa trên tính toán xác suất và tần suất xuất hiện của các mặt súc sắc để định ra luật lệ trò chơi. Càng khó xuất hiện (tức là xác suất thấp, tần suất xuất hiện ít) thì mức thưởng càng cao.

Từ đó hình thành ra các loại thẻ xăm hường. Bộ thẻ Xăm Hường được lập theo thứ tự quẻ Dịch: Thái Cực (1), Lưỡng Nghi (2), Tứ Tượng (4), Bát Quái (8) từ đó tăng dần lên theo cấp số nhân mà công bội là 2. Nếu tính đơn vị là 1 thẻ nhất hường (giá trị là 1) thì tổng giá trị của cả bộ Xăm Hường là 192 đơn vị, chia ra làm 6 loại thẻ, mỗi loại thẻ trị giá 32 đơn vị gọi là 1 Trạng.

Tên gọi và giá trị của các loại thẻ Xăm Hường:

TT

Tên gọi

Giá trị

Số lượng (thẻ)

1

Thẻ Trạng Nguyên (dân gian gọi là Trạng anh)

32

1

2

Thẻ Bảng Nhãn, Thám Hoa (Trạng em)

16

2

3

Thẻ Tam Hường

8

4

4

Thẻ Tứ Tự (hay Tứ Tấn)

4

8

5

Thẻ Nhị Hường

2

16

6

Thẻ Nhất Hường

1

32

Tổng mỗi loại thẻ có giá trị 32 đơn vị gọi là 1 trạng x 6 = 192 đơn vị, người ta gọi là 6 Trạng.

Thẻ Tam Hường còn gọi là thẻ Tam Hường Hội. Còn nhất hường, nhì hường tương đương với cấp đỗ đạt là Tú Tài, Cử Nhân thì tôi chì nghe nói mà thôi.

Như vậy chỉ với 1 bộ 6 hột súc sắc và một bộ thẻ như trên với 1 cái tô kiểu tiếng kêu thanh tao là ta đã sẵn sàng cho một cuộc chơi vui thú.

Những qui ước trong trò chơi Xăm Hường:

Người  chơi được nhận thẻ xăm theo những gì xuất hiện trong 1 lần đổ hột vào tô.

Nhất Hường (1 mặt tứ) : lấy 1 thẻ một

  1. Nhị Hường (2 mặt tứ) : lấy 1 thẻ 2 hoặc 2 thẻ 1 khi không còn thẻ 2.

  2. Tứ Tự (hay còn gọi là Tứ Tấn): khi có 4 mặt giống nhau trừ mặt Hường (mặt bốn) thì lấy 1 thẻ 4. Nếu ngoài 4 mặt giống nhau đó có thêm 1 hường hay 2 hường thì lấy thêm 1 thẻ 1 hoặc 1 thẻ 2.

  3. Tam Hường (3 mặt tứ): lấy thẻ 8

Nếu Tam Hường đi với 3 hột súc sắc còn lại cùng 1 mặt (ví dụ 3 tứ, 3 tam) thì gọi là Phân Song Tam Hường, lấy được 1 Trạng em và 1 thẻ Tam Hường (trị giá 24 thẻ)

  1. Trạng em: có nhiều trường hợp xuất hiện được lấy Trạng Em (tức là Bảng Nhãn, Thám Hoa)

    1. Suốt: 6 hột theo thứ tự nhất - nhị - tam - tứ - ngũ - lục.

    2. Phân Song: là chia hai, 3 hột mặt này, 3 hột mặt kia (ví dụ 3 tam, 3 nhị)

    3. Thượng Mã, Hạ Mã: theo chữ là “Thượng mã đề kim, hạ mã đề ngân” trong tích Tào Tháo đãi ngộ Quan Công trong truyện Tam Quốc Chí.

-         Thượng mã là 3 đôi: 2 nhất, 2 nhị, 2 tam

-         Hạ mã là 3 đôi: 2 tứ, 2 ngũ, 2 lục

    1. Tứ Tự Cáp:  Cáp nghĩa là ghép với nhau. Tứ tự là 4 mặt giống nhau, hai hột còn lại mà tổng số bằng với mặt tứ tự thì gọi là Tứ Tự Cáp.

Ví dụ: Tứ tự là 4 mặt ngũ, 2 hột còn lại có thể là 3 và 2 hoặc là 4 và 1 thì đều gọi là tứ tự cáp.

Có 2 trường hợp đặc biệt của tứ tự cáp:

-         4 mặt nhất và 2 mặt ngũ, lục thành ra 11 là tứ tự cáp của mặt nhất.

-         4 mặt nhị và 2 mặt nhất hoặc là 2 mặt lục cũng là cáp.

Bốn trường hợp trên, người chơi được quyền lấy thẻ trạng Em. Khi hết thẻ trạng Em giữa làng thì lấy tương đương giá trị 16 thẻ.

  1. Trạng Anh (Tức là Trạng Nguyên) có 2 trường hợp.

  1. Trạng Tứ hường (còn gọi là trạng Đỏ) bao gồm 4 mặt hường. 2 hột súc sắc còn lại cộng với nhau thành ra tuổi của Trạng.

Ví dụ: 4 hường và 2 mặt còn lại là 3 và 5 thì gọi là trạng 8 tuổi.

Khi một người đã lấy được trạng 8 tuổi, mà có người khác đổ hột súc sắc ra trạng Anh 9 tuổi trở lên thì người đó được lấy trạng anh từ tay người kia gọi là cướp trạng.

Ngoài tuổi của trạng xác định như trên còn có 2 trường hợp đặc biệt là Trạng cáp xiên và Trạng cáp chính.

Trạng cáp xiên là 4 tứ, 1 tam, 1 nhất.;

Trạng cáp chính là 4 tứ, 2 nhị.

Trạng cáp xiên cướp trạng có tuổi. Trạng cáp chính cướp được cả trạng cáp xiên.

  1. Trạng ngũ tử (Trạng anh Đen): bao gồm 5 mặt giống nhau trừ hường. Hột xúc sắc còn lại là số tuổi.

Ví dụ: 5 mặt ngũ một mặt nhị thì gọi là Trạng ngũ tử 2 tuổi. Nếu người khác cũng ra ngũ tử mà tuổi lớn hơn thì cướp trạng.

Trạng ngũ tử có một trường hợp đặc biệt là ngũ tử đại ấn tức là 5 hột cùng một mặt, hột còn lại là mặt tứ. Trạng ngũ tử đại ấn cướp trạng ngũ tử có tuổi.

Có một quy định đặc biệt là loại trạng nào chỉ được cướp trạng loại đó. Trạng đỏ không được cướp trạng ngũ tử và ngược lại.

Trường hợp đổ ra trạng mà không cướp được trạng thì người ấy sẽ lấy 32 thẻ giữa làng.

Nếu người có trạng mà đổ ra trạng nhiều tuổi hơn thì chỉ được tăng tuổi  trạng chớ không được phép lấy thêm thẻ giữa làng.

  1. Ngũ hường đoạt tam khôi: Tức là 5 mặt hường thì được lấy cả 3 trạng (1 trạng anh và 2 trạng em) dù trạng đã nằm trong tay người khác. Hột súc sắc còn lại là số tuổi của ngũ hường.

  2. Lục phú: Có 2 trường hợp:

  1. Lục phú đen: 6 mặt giống nhau trừ hường.

Khi có lục phú thì không kể ai có bao nhiêu thẻ, tất cả người chơi đều đồng loạt chung cho người lục phú giá trị theo quy định (nếu 6 hoặc 7 người chơi, mỗi người phải chung 1 trạng)

  1. Lục phú hường: 6 mặt tứ

Tất cả đều chung cho người có lục hường trị giá gấp đôi quy định (nếu chơi 6 hoặc 7 người thi 1 người phải chung 2 trạng)

Trong trường hợp, người chơi đổ hột văng ra ngoài thì xem như bất hợp lệ và phải bị phạt một thẻ hường thêm vào trạng.

Trường hợp người có trạng đổ hột những lần đầu không có hường thì mỗi lần bị phạt 1 thẻ thêm vào trạng.

Số lượng người chơi và cách tính số lượng thẻ của mỗi người chơi:

1. Từ 2 đến 7 người:

- Hai người: mỗi người phải đủ 32 x 3 = 96 thẻ.

- Ba người: mỗi người phải đủ 32 x 2 = 64 thẻ.

- Bốn người: mỗi người phải đủ 32 x 1,5 = 48 thẻ.

- Năm người: Có 2 cách:

      + Nếu chia đều thì bỏ bớt 2 thẻ, còn 190 thẻ, mỗi người phải đủ 38 thẻ.

      + Bán trạng: người có trạng anh được quyền bán trạng và những thẻ khác trên tay mình, không giữ lại thẻ nào. Như vậy, mỗi người khác phải đủ 48 thẻ.

-         Sáu người: mỗi người phải đủ 32 thẻ.

-         Bảy người: người nào có trạng anh sẽ bán hết thẻ trên tay mình cho người nào còn thiểu (mỗi người phải đủ 32 thẻ).

2. Bắt đầu 8 người chơi trở lên thì cách tính có phần phức tạp hơn. Số người chơi có thể nhiều nhưng nên chơi tối đa 12 người.

Từ 8 đến 12 người chơi, chúng ta áp dụng lối bán trạng 2 lần.

Nhiều người nghĩ rằng, bán trạng 2 lần là người có trạng được bán gấp đôi giá trị của thẻ trạng (32 x 2 = 64)

Thật sự, nếu chơi theo cách đó thì chỉ có 1 người vui vì ăn nhiều mà những người khác sẽ buồn vì ai cũng thua cả.

Theo tôi đã áp dụng và cách bán trạng 2 lần này hay hơn.

Bán trạng hai lần có nghĩa là cả trạng anh và 2 trạng em đều được bán.

Người có trạng em được xem như đủ thẻ, số còn lại mà người có trạng em lấy được thì được quyền bán.

Sau khi người có thẻ trạng em bán xong, thì người có trạng anh sẽ ăn hết phần còn lại

Số lượng thẻ cần có của những người chơi không có trạng giảm dần khi số người chơi tăng lên:

8        người chơi, mỗi người không có trạng chịu 32 thẻ

9                                                                       28 thẻ

10                                                                     25 thẻ

11                                                                     22 thẻ

12                                                                     20 thẻ

Số lượng thẻ này tùy theo sự giao ước của những người chơi. Con số trên đây chỉ là con số để tham khảo mà thôi.

Đổ xăm hường trong chương trình Đêm hoàng cung

Một số cải biến để trò chơi thêm hấp dẫn :

  1. Đấu thẻ rời: Khi còn lại chỉ trạng anh, người ta tạo thêm hào hứng bằng cách đấu 1 , 2 thẻ hường. Ai nhiều hường hơn sẽ ăn hết. Lối đấu này chỉ căn cứ theo mặt hường.

  2. Hạ giá trạng: Khi đã hết thẻ nhỏ mà đổ nhiều vòng không lên trạng, để cho nhanh có thể hạ giá trạng. Thông thường là phân song tam hường, có thể là trạng em trừ suốt (Có nghĩa là phân song, tứ tự cáp, thượng hạ mã)

  3. Cướp Trạng Em: Khi có 8 người chơi trở lên, người chơi chấp nhận bán trạng 2 lần thì giá trị của trạng em tăng lên nhiều. Có thể chia ra 3 cấp để cướp trạng em.

Cấp I: Phân song tam hường

Cấp II: Phân song, tứ tự cáp, thượng mã, hạ mã

Cấp III: Suốt

Như vậy phân song tam hường có thể cướp trạng em cấp II và III, cấp II có thể cướp trạng em của Suốt.

Người lấy trạng em trước thì bị cướp trước.

  1. Không lấy thẻ: Người chơi có quyền không lấy thẻ giữa làng vì không ai cấm 1 người từ chối quyền lợi mình được hưởng. Như vậy người chơi có cơ hội cướp trạng nhiều hơn.

Bằng cách chơi mới lạ này mà bạn bè Quốc Học 61-64 đã áp dụng trong buổi họp mặt đầu năm Đinh Hợi. Nó tạo nên niềm vui vô kể.

Hầu như trò chơi nào cũng có những biến thái thích hợp để tạo nên hào hứng và vui vẻ nhiều hơn. Do đó chúng ta không nên câu nệ lề thói cũ mà thử áp dụng những cải biến trong trò chơi xăm hường để trò chơi vui hơn, hấp dẫn hơn. 

 

Chế tác thẻ Xăm Hường

Trong nội cung triều Nguyễn và các gia đình quan lại trước đây, thẻ xăm hường có thể làm bằng ngà voi. Sau này, thẻ xăm hường được làm bằng vật liệu khácdễ kiếm hơn. Vật liệu có thể là sùng bò, sùng trâu trắng, xương, tre, gỗ để làm xăm. Có thể in, vẽ hình trạng và ghi chữ Hán, cũng có thể ghi chữ số, miễn sao có đủ thẻ lớn nhỏ để chơi.

Bộ thẻ xăm hường của tôi được chế tác từ đủa nhựa melamine của Trung Quốc. Chỉ cần cắt dài ngắn khác nhau ta có thẻ nhất hường, nhị hường, tứ tự. Ghép 2 thẻ tứ tự cho dài hơn 1 tí ta có thẻ tam hường, ghép 3 thẻ dài hơn ta có trạng em, dài hơn chút nữa ta có trạng anh.

Dùng keo dán Super Glue đễ gắn các thẻ đủa lại với nhau. Cách chế tác này dễ dàng. ai cũng làm được vì đơn giản vô cùng mà âm thanh của thẻ va chạm nhau cũng thanh tao “nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau” vui tai lắm lắm .

Xăm hường là một trò chơi mang đậm nét văn hoá đặc sắc. Trò chơi phổ biến rất rộng rãi trong xã hội Huế và các vùng lân cận. Trò chơi vô cùng tao nhã và thân thiết.

Cứ mỗi lần Tết đến, được nghe âm thanh các hột súc sắc đỗ dòn trong cái tô kiểu, lòng người tự nhiên thấy rộn rã một không khí vui tươi, đầm ấm của một gia đình người Huế đón xuân.

Mỗi gia đình người Việt dù ở Việt Nam hay xa xứ nên kiếm mua hoặc tự làm một bộ xăm hường để gia đình được quây quần vui vẽ trong ba ngày Tết với trò chơi tao nhã: XĂM HƯỜNG

LÊ DUY ĐOÀN-Mông 8/1/Đinh Hợi.

nguồn: tổng hợp