Hiển thị các bài đăng có nhãn ảotưởng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ảotưởng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 7 tháng 6, 2010

100608- Để có 10 tỷ USD dễ hay khó? - Phần 2

LTS: Số báo trước, tác giả bài viết đã đưa ra những ví dụ tưởng như rất nhỏ nhoi để đưa ra luận điểm: Muốn có 10 tỷ USD dễ hay khó. Những thông tin trong số báo này tiếp tục là những ví dụ để đưa ra câu trả lời đảo ngược mệnh đề: “Làm thế nào để không mất 10 tỷ USD?”.

 

4 - Chủ trương công nghiệp hóa là một vận động khách quan rất đúng đắn để mau chóng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu nhưng nó cũng đòi hỏi tính đồng bộ , thúc đẩy các địa hạt khác cùng tiến tới.

Do đó, từ thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn đương chức, ông đã khuyến cáo không nên dùng đất có vị trí, chất lượng tốt để làm khu công nghiệp. Mười lăm năm sau, hầu như về cơ bản, ta đã làm… ngược lại.

Tại trục đường quốc lộ số 1, số 2, số 5 ở kế cận thủ đô Hà Nội hay vùng 100 km kế cận TP HCM, hầu như 100% khu công nghiệp tiến chiếm những mảnh đất đẹp nhất của kinh tế nông nghiệp để làm khu công nghiệp theo hướng càng gần đường càng tốt, càng gần đô thị càng tốt.

Nhiều vùng nông nghiệp điển hình, vùng vành đai xanh của thành phố, vùng dân cư ổn định như vùng Bàu Xéo thuộc Đồng Nai, Củ Chi, Trảng Bàng ở hướng Tây bắc Sài Gòn hoặc bám lộ tuyến Hà Nội Việt Trì, Hà Nội Hải Dương đã biến thành khu công nghiệp.

Có thể lấy một hình ảnh điển hình là: Chỉ cách khu công nghiệp Bàu Xéo huyện Trảng Bom tỉnh Đồng Nai hoặc khu công nghiệp Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc khoảng 15 km là những vùng đất bán sơn địa, cằn cỗi khó phát triển nông nghiệp nhưng rất phù hợp để làm công nghiệp. Tại đó, kể cả khi làm một con đường đại lộ rộng 40 m nối với quốc lộ vào thì vẫn bảo đảm được các nhân tố về nhiều mặt, vẫn hấp dẫn nhà đầu tư như thường.

Đối với những nhà đầu tư chân chính, họ vượt trùng khơi sang đây được thì việc vượt thêm mươi km vào bản doanh mới không có gì khó khăn cả. Trong lúc đó, nửa ngàn hécta cao su cao sản, mỗi năm cho thu tại chỗ hàng trăm tỷ đồng không phải hi sinh tức tưởi (như ở Bàu Xéo) hoặc hàng trăm tỷ đồng trên những cánh đồng vốn đã đạt chỉ tiêu “CLB 50 triệu/ha” như nhiều vùng ở Vĩnh Yên, Hải Dương vẫn yên tâm phát triển.

Cần nói rõ, một trong những giá trị căn bản hàng đầu của đất đai là vị trí. Những khu đất cận đô thị, sát trục lộ tự thân nó đã có giá trị lớn, nhiều khi lớn hơn giá trị thu được từ thuế của KCN, nó là một dạng siêu tiềm năng để tạo điểm bùng phát cho kinh tế đất nước năm, mười năm nữa.

Việc hình thành các KCN sát lộ kiểu hiện nay, để “tiếp thị” bằng trực giác là một tư duy sơ giản, thiếu chiều sâu và cái giá phải trả về ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường… Và đó là chưa kể những khu công nghiệp bỏ hoang hóa, những bờ xôi ruộng mật bị bê tông rồi bỏ đó thiệt hại đến chừng nào?

Nếu gom những thất thiệt kiểu này trên quy mô toàn quốc, ngoài những mất mát về môi trường, về cấu trúc cảnh quan, về giá trị tự thân của vị trí đất ra, thiệt hại trực tiếp từ thất thu ở những vùng nông nghiệp tiềm năng, đang phát triển trong khung thời gian gần như vĩnh viễn thì khó mà thống kê nổi!

5 - Cuối cùng, ta xét đến vấn đề lương lao động và tiền thuê mặt bằng.

Khoảng năm 1995-2005, khi tốc độ công nghiệp hóa bắt đầu phát triển ở Việt Nam, có vẻ như ta rất dễ dãi, xông xênh trong việc xác định mức lương cơ bản cho công nhân Việt Nam. Trước năm 2005, nhiều xí nghiệp liên doanh hãy còn trả cho công nhân Việt Nam lương tháng cỡ dưới 70 USD.

Tiền thuê mặt bằng cũng vậy, hình như đã có một chủ ý dùng giá trị tiền công chi cho nhân công thấp và hạ đến mức không thể thấp hơn tiền từ giá trị sử dụng đất cho các công ty nước ngoài để mời gọi đầu tư. Cho nên, trên thực tế đã có những hình ảnh bi hài: tiền thuê mặt bằng cho một công xưởng rộng cả hecta chỉ bằng tiền… ăn của ông Tổng giám đốc Công ty bên chính quốc. (Hiện nay một số nơi đã có điều chỉnh với những hợp đồng mới cao gấp 4 lần trước đây, họ vẫn vào).

Tiền lương công nhân thì thấp hơn 3 lần tiền lương cùng ngạch cùng nghề của công nhân bên Philippin và Malaysia, nơi cùng khu vực, chỉ cách ta hai giờ bay. Tại đây, “nội lực” của ta biến thành… ngoại tệ tồn lại trong túi ông chủ nước ngoài khi họ không phải chi.

Có người nói: Phải như vậy mới thu hút đầu tư mạnh từ ngoại quốc được.

Xin thưa, đó chỉ là lý luận sơ giản của người chưa ra biển lớn.

Nước Việt Nam này, có hàng loạt nhân tố thu hút đầu tư khác về vị trí, bờ biển, tài nguyên v.v…

Phải vận đến mồ hôi nhân công rẻ mạt là hạ sách và làm tiêu biến không biết bao nhiêu tỷ USD mà ta có thể được hưởng. Bằng chứng là từ dăm năm nay, bởi nhiều yếu tố cọ xát, mức lương cho công nhân trong các công ty liên doanh bình quân đã cao hơn trước năm 2005 nhiều lần, giá thuê mặt bằng cũng đã cao lên vài lần nhưng tốc độ đầu tư vào Việt Nam vẫn không hề giảm!

Làm thế nào để không mất 10 tỷ USD?

Nhìn lại 05 ví dụ thì:

Mất do thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu có.

Mất do năng lực công nghiệp (ở đây là năng lực vận tải) bị kiềm chế có.

Mất do cấu trúc thời gian đào tạo trong giáo dục dài dòng , có.

Mất do thiếu hiểu biết, thiếu mẫn cảm trong việc “đọc” các đối tác, trong đàm phán thương mại, ngoại giao, có.

Mất do thiếu khả năng định dạng năng lực vĩ mô của xã hội nên hy sinh (giá công nhân, giá thuê đất rẻ) có.

Và những cách làm này cho chúng ta một câu trả lời lạnh như thép: Để làm mất 10 tỷ USD dễ vô cùng…

Bao giờ? Bao giờ ta lập được một biểu đồ ghi biên độ cụ thể trong những đồng tiền được đầu tư vào Việt Nam và những phân vạch thật rõ ràng từng góc từng phần để thể hiện đâu là đồng tiền hữu dụng, đâu là số tiền đã mất, sắp mất do những chuyện nho nhỏ như đã từng ví dụ?

Nguyễn Huy Cường

nguồn: http://www.tienphong.vn/Thoi-Su/502702/De-co-10-ty-USD-de-hay-kho---Phan-2.html

100608- Để có 10 tỷ USD dễ hay khó?

Đưa ra câu hỏi làm thế nào để có được số tiền lớn, 10 tỷ USD và trả lời bằng việc đưa ra ví dụ từ những việc tưởng chừng rất nhỏ. Cách đặt vấn đề và góc nhìn của tác giả Nguyễn Huy Cường có thể chưa thật hoàn chỉnh nhưng sự thú vị thì bạn có thể cảm nhận được trong từng câu chữ.

Và có thể, khi đọc xong bài viết bạn sẽ muốn cùng trao đổi với tác giả và chúng tôi về vấn đề này.

10 tỷ USD lớn thế nào?

Một lần, đọc một tờ báo lớn, thấy dư luận đang hết sức phấn khởi với một dự án của nước ngoài trị giá khoảng một tỷ USD vừa được ký kết. Sự kiện này sau đó đã được nêu trên trang nhất của nhiều nhật báo lớn. Thì ra, một tỷ USD là rất lớn, có thể xây được 2 cây cầu như cầu Cần Thơ!

Khái niệm “nội lực”

Bây giờ, nếu hỏi một sinh viên triết hoặc ngữ văn, tìm những khái niệm của hai chữ “nội lực” thì chắc sẽ có những liệt kê ở hàng đầu như sau:

Nội lực là: Tài nguyên, Dân số, Vị trí khu vực, Biển và có thể liệt kê nhiều hơn như thế.

Đúng cả đấy! Phàm những cái gì sinh ra, tàng trữ, phát triển được trong sự quản lý của dân, của nước đó để đem lại lợi ích kinh tế cho mình thì đó đích thị là “nội lực”. Nhưng, mở rộng ra, ở thời buổi của trí tuệ, sáng tạo người ta còn thấy bóng dáng của hai chữ “nội lực” sinh động hơn nhiều.

Năm 2002 tôi đi tìm tư liệu để viết bài “Bảo vệ rừng nhìn từ PGT” thì bừng tỉnh ra một loại “nội lực” khá độc đáo: Nội lực từ những thứ đã… bỏ đi.

Tập đoàn PGT từ nước Australia đến KCN Sóng Thần tìm kiếm, sản xuất, kinh doanh từ phế liệu. Họ lượm lại hàng trăm ngàn mét khối palet, bao bì gỗ, thùng chứa hàng bằng gỗ rồi xử lý, ghép, chế biến ra những sản phẩm gia dụng, văn phòng rất đẹp rồi xuất khẩu sang phương tây, thu về mỗi năm cả triệu USD.

Đối với họ, từ “ Recycl” là một sự nghiệp lớn!

Ngành hàng của PGT ngoài các ý nghĩa giải quyết hàng chục ngàn công ăn việc làm cho dân Việt ra, nó có ý nghĩa thiết thực rất lớn trong việc bảo vệ rừng. Mỗi năm, hàng ngàn mét khối hàng hóa đồ gỗ ra đời mà hàng chục ngàn hécta rừng không bị chặt phá nên nó được miễn thuế. Thu nhập của nhà kinh doanh, sản xuất và công nhân rất cao!

Thì ra, “nội lực” còn là khả năng phát hiện, xử lí và phát triển những cái tưởng như bỏ đi để phục vụ cho cuộc sống.

Như vậy, nếu mở rộng nội hàm của cụm từ “ nội lực” ra thì thấy có nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa lớn nhất là ta đã phung phí nguồn nội lực đang có.

“Nội lực” với những dấu nhân khủng khiếp

1- Trong việc lập thủ tục hợp thức hóa (HTH) nhà đất, có một việc là đo vẽ. Sau khi ký hợp đồng với nhà dịch vụ, nộp bạc triệu xong, gia chủ đón hai nhà chuyên môn vào cùng với những phương tiện quan trắc, đo đếm hiện đại lỉnh kỉnh vào ngắm nghía, đo đạc, ghi chép nhanh là nửa buổi, nhiều khi vài ngày mới xong rồi họ về lên một bản vẽ chi tiết đến từng xăng ti mét ở chiều cao, chiều rộng từ cái toilet trở ra đến buồng ngủ, gác xép…

Nếu có gì đó sai sót so với bản vẽ tiền khởi hoặc các chứng từ, hồ sơ trước đó thì coi chừng... Chưa hết, trong mớ hồ sơ ở một số nơi còn có trò buộc khổ chủ phải đăng 3 số liên tiếp trên báo chí.

Cái nhà ở thực chất là một công cụ sống, luôn cần được chỉnh trang, cải sửa, nâng cấp cho phù hợp với các nhu cầu của cuộc sống, thực chất không liên quan hoặc không làm thay đổi ý nghĩa của sở hữu chủ ngôi nhà. Trong cái nhà xưa có 3 buồng nay thêm một buồng cho cậu hai ở riêng tuyệt nhiên không làm thay đổi tư cách chủ nhân đã đăng ký, sở hữu ngôi nhà.

Tôi đã đọc kỹ những văn bản HTH nhà ở của chế độ cũ, nó chỉ ghi nhận diện tích đại thể kèm bản sơ đồ chỉ vị trí là xong. Cơ quan quản lý chỉ có một việc là xác định tư cách chủ sở hữu của người dân với khối tài sản này về mặt đại thể thôi.

Việc đăng báo càng kỳ cục hơn. Chắc gì người muốn thắc mắc đã đọc báo và cũng chưa có định chế nào ghi nhận đã “đăng báo” là hợp thức , là miễn thắc mắc cả. Không thiếu những ngôi nhà đã hợp thức, đã đăng báo vẫn có sai sót phải hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là chuyện thường, vậy thì đăng để làm gì?

Nhưng, ngay trong hai nét “nho nhỏ” này thôi, có thể khổ chủ đã tiêu tốn từ một đến hai triệu đồng cho việc HTH ngoài khoản lệ phí chính đáng phải có.

Nếu nhân thật nhanh hơn triệu bạc tiền đăng báo và đo đạc chi tiết ấy với mươi triệu ngôi nhà ở đô thị đã và sẽ phải HTH này thì một cục… nội lực rất lớn.

2- Từ năm năm trở lại đây, khi những cái máy bắn tốc độ được đưa vào kiểm soát tốc độ xe cơ giới đồng thời với hiệu lực của việc áp dụng các biện pháp hạn chế tốc độ ở trên 95% chiều dài đường bộ Việt Nam. Một điều được dư luận và giới chuyên môn chỉ ra là thiếu thực tế và chậm hơn mức an toàn ít nhất mười km/h.

Với tốc độ tối đa cho xe tải lớn trong đô thị là 40 km/h ngoài đô thị là 60 - 70 km, xe du lịch hơn lên 10 km/h cùng với vô vàn lằn giảm tốc trên đường bộ hiện nay, mỗi ngày một đầu xe bình quân hao tốn hơn bình thường một lít nhiên liệu cho một ca xe (300km) là chuyện không phải bàn. Nước ta hiện có 1,6 triệu xe thì mỗi ngày mất 1,6 triệu lít nhiên liệu trị giá 24 tỷ đồng. Như vậy, mỗi giờ mất đứt một tỉ đồng.

Ngoài ra, cũng bởi trở lực kiểu này, cứ mỗi ca xe bị chậm trễ cỡ một giờ đồng hồ, thì lại thêm một cục “nội lực” cỡ triệu rưỡi giờ một ngày bay vào hư vô. Cái đại lượng thời gian và xăng dầu này nghe thì mông lung hư ảo, mỗi xe mất một lít, mỗi người chỉ mất một ít có vẻ… chịu được.

Đi làm đến năm giờ chiều về, nay chậm đến bảy giờ cũng chẳng sao nhưng nếu cứ gom nó lại cho một năm sẽ là con số ghê người: bảy chục triệu ngày công mỗi năm. Quy từ năng lực nhân công, lương bổng và khấu hao vật chất ta thấy dư đủ năng lực lao động vận tải thi công một nhà máy thủy điện lớn cỡ Hòa Bình, Yaly. Với 5 năm trời, năm lần hơn thế nữa thì nó ứng với số năng lực vận tải đủ để làm thêm một con đường cao tốc từ Hà Giang vào đến Cà Mau!

Toan tính trên đây hoàn toàn là thực tế được thể hiện bằng số học cơ bản, chưa cần lập phương trình bậc nhất. Nó chính là cái năng lực đã có bị mất đi mà không đem lại lợi ích. Xăng dầu đã mất đi, sức máy đã mất đi, sức người đã mất đi nhưng hiệu ứng kinh tế thì không được thêm gì cả.

3- Với quy trình đào tạo đại học ở ta hiện nay, xin nêu ví dụ hẹp là với ngành Xây dựng, Tin học, Ngoại ngữ, Ngoại thương, Sư phạm, cơ khí động lực, giao thông... thường phải dùng quỹ thời gian bốn năm rưỡi, kể cả thời gian làm luận văn tốt nghiệp.

Với những môn học tương đương, ở Úc, Mỹ, New Zealand người ta đào tạo ít ta hơn một năm. (Ở trường quốc tế RMIT của Úc tại tpHCM, để có chứng chỉ đại học cho môn ngoại ngữ, SV ra trường có khả năng thực hành tốt hơn các đại học ngoại ngữ ở Việt Nam chỉ mất gần 3 năm, các ĐH ngoại ngữ của ta là 4 năm).

Như vậy, chỉ tính mỗi cử nhân ra khỏi trường đại học là đã mất 01 năm lãng phí so với những nền giáo dục chuẩn mực.

Nếu có một năm đó để lao động, để vừa rèn luyện tay nghề và sinh lợi phục vụ cuộc sống từ việc ra trường thì chúng ta có thể tận dụng được một nội lực khổng lồ khi tạm nhân ba triệu cử nhân đã tốt nghiệp đại học với một năm trời. Mỗi tháng lương chỉ tính ba triệu bạc thôi thì lớp trẻ có ăn có học này đã có thể kiếm được chín ngàn tỷ đồng mỗi tháng cho họ và xã hội sẽ được hưởng chất lượng lao động tri thức khá cao từ nguồn này.

Còn nữa

 Nguyễn Huy Cường

nguồn: http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/502583/De-co-10-ty-USD-de-hay-kho.html