Hiển thị các bài đăng có nhãn cốtnền. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cốtnền. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 18 tháng 3, 2010

100319- Sài Gòn “loạn” cốt nền: Cần các quy ước đô thị minh bạch

Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng (ảnh) - Giám đốc Công ty tư vấn xây dựng Việt Kiến Trúc (V.ARCHI), cũng là tác giả cuốn sách Lang thang phố thị viết về cách quản lý đô thị của nhiều thành phố trên thế giới, đã có cuộc trao đổi với Thanh Niên về vấn đề cốt nền:
Tình trạng không có cốt nền chuẩn gây khó khăn rất lớn cho việc phát triển đô thị, chống ngập - Ảnh: Diệp Đức Minh

- Theo tôi, để chuẩn hóa được vấn đề cốt nền, TP.HCM cần phải thành lập một đơn vị chuyên nghiên cứu, xây dựng bản đồ cốt nền và phổ biến như một văn bản pháp quy chính thức cho các quận, huyện cũng như các cơ quan liên quan đến lĩnh vực xây dựng, các công ty tư vấn thiết kế... Công nghệ LiDAR do Sở Khoa học - Công nghệ TP.HCM đưa ra là một giải pháp quan trọng giúp cho nhiều ngành trong lĩnh vực quản lý đô thị tham khảo. Phần mềm dữ liệu về cao độ của TP này khi hoàn thành phải được xem như tài sản quốc gia, được các đơn vị trong lĩnh vực chuyên ngành và người dân thụ hưởng để áp dụng hiệu quả trong thực tế.

* Ông có thể nói rõ các giải pháp để xây dựng một bộ bản đồ cốt nền chuẩn?

- Sau khi quét không ảnh về độ cao địa hình và xây dựng được phần mềm dữ liệu, phải xây dựng được bản đồ nước triều dâng qua từng thời gian trong năm hoặc dài hơn. Đồng thời phải nghiên cứu xây dựng được bản đồ lượng mưa, tương ứng với việc thể hiện được vùng nào ngập nhiều, vùng nào ngập ít và ngập sâu bao nhiêu... Từ đó sẽ xây dựng được bộ bản đồ dự báo cho tương lai, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tình hình ngập lụt ra sao... TP.HCM trước đây được xây dựng trên một vùng tương đối cao, với độ dốc là 8 độ hướng ra phía biển, nên vấn đề thoát nước tương đối dễ. Tuy nhiên do tình trạng quản lý đô thị manh mún, thiếu khoa học qua nhiều thời kỳ, lại chưa có bộ bản đồ cốt san nền cho từng khu vực nên mới gây ra tình trạng nhà xây dựng lô nhô cao thấp, ngập nước triền miên.

* Ông nhận định thế nào về vấn đề thoát nước theo từng lưu vực và chia ra nhiều phân khu chức năng để có giải pháp quản lý đô thị phù hợp?

- Để giải được bài toán ngập úng, phải quy hoạch cốt san nền cho từng khu vực dựa vào việc phân vùng lưu vực cho hệ thống thoát nước mặt hoặc nước triều. Cụ thể là khu vực nào đổ nước ra sông, khu nào ra kênh rạch và khu nào đổ ra biển. Điều này nhằm để tránh tình trạng hệ thống cống thoát nước của các con đường xương cá bố trí lộn xộn, dòng nước ngược xuôi và chảy loanh quanh dưới cống, không thoát được theo lưu vực khiến gây ra ngập úng. Từ việc phân vùng lưu vực này, chúng ta mới có sự phân bố hệ thống đường giao thông hợp lý. Ví dụ: ở Q.1, hướng thoát nước mặt sẽ đổ ra sông Sài Gòn nhưng ở Q.Bình Thạnh, một phần nước mặt sẽ đổ ra kênh Nhiêu Lộc. Nếu không tính toán vấn đề này, bố trí cốt san nền của nhiều khu vực sẽ mất đi tính hợp lý.

* Các thành phố trên thế giới giải quyết vấn đề cốt san nền như thế nào ?

- Họ thường theo thông lệ: Sau khi phân vùng lưu vực, các chuyên gia sẽ xác định hướng tuyến thoát nước và xác định tuyến giao thông tương ứng. Với cách làm này, lề đường lúc nào cũng sẽ bằng với cốt nền tầng trệt hoặc sân vườn của nhà dân. Trên cơ sở đó, cơ quan chức năng sẽ cấp phép xây dựng dựa vào cốt san nền, vách mặt tiền đường (tùy thuộc vào dạng nhà hợp khối hoặc nhà rời nhau) hoặc vật liệu xây dựng mà chủ nhà sử dụng... Các hệ thống hạ tầng khác của ngôi nhà cũng sẽ được cập nhật như điểm đấu nối điện nước, hệ thống cứu hỏa, vị trí đặt bảng số nhà, vị trí cây xanh. Một vấn đề vô cùng quan trọng là các cơ quan quản lý thành phố đều ban hành các quy ước đô thị minh bạch và thường căn cứ vào đặc thù của từng đô thị. Từ đó người dân sẽ xác định rõ ràng về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, có cách ứng xử nhân văn với lề đường và cảnh quan khu vực.

17 giải pháp

GS-TS Lê Huy Bá - Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và Quản lý môi trường (ảnh) - đã gửi đến Thanh Niên 17 giải pháp cụ thể về vấn đề cốt nền và chống ngập trong bối cảnh biến đổi khí hậu:

1) Khi quy hoạch đô thị (đô thị hóa), nhất là đô thị "bán ngập triều" như TP.HCM, trước hết phải quy hoạch hệ thống thoát nước mưa, nước thải, chống ngập mưa và ngập triều, theo quy mô dân số. Khi xây dựng đô thị mới, phải xây dựng cơ sở hạ tầng, (điện, điện thoại, cấp thoát nước, đường... ) mà trước nhất là hệ thống thoát nước.
2) Cấm tuyệt đối san lấp sông, kênh rạch và vùng trũng, nội và ngoại thành.
3) Nạo vét thường xuyên hoặc định kỳ sông và các hệ thống kênh rạch, mức nạo vét ít nhất bằng kích thước kênh rạch trước khi bị bồi lấp, lấn chiếm.

4) Cải tạo hệ thống cống thoát nước hiện hữu:
- Nơi đô thị mới mở, không nối thêm ống cống vào các đường cống cũ, để nó phải nhận thêm lượng thải quá dung tích lưu vực.
- Xây dựng các đoạn cống thoát nước mới, bên cạnh các đoạn cống thoát nước quá tải, có đường kính 1,5 - 3m, tùy đoạn. Cuối đoạn cống mới này lắp van một chiều để chủ động thoát nước tự chảy; hoặc thay vào đoạn cống mới là một hồ điều hòa dạng chìm ở những nơi có điều kiện địa hình cho phép.
Hiện nay, TP đang thi công các hệ thống cống lớn là hướng đi đúng, vừa kết hợp xử lý nước thải vừa tạo bể chứa tạm lượng nước ngập, trước khi đổ ra sông Sài Gòn, giống như một hồ điều hòa vậy.

5) Đối với vùng thấp ngoại thành: Xây dựng hồ điều hòa dạng chìm để chứa lượng nước chưa kịp tiêu thoát, sau đó khi triều rút thoát nước tự chảy. Có thể xây dựng ở Q.12, H.Hóc Môn, H.Bình Chánh, Q.7; khu vực tiếp giáp Phú Mỹ Hưng, H.Nhà Bè; Q.9 (vùng bưng 6 xã), Q.Thủ Đức (bưng cạnh Làng Đại học) mỗi quận một hồ có dung tích 200m x 200m x 5m = 400.000m3 tiếp nhận nước ngập và dần biến thành hồ sinh thái, công viên.
6) Tăng cường hệ thống thoát nước mưa trực tiếp ra sông Sài Gòn không cho đi qua trung tâm Q.1, Q.3, từ từng tiểu lưu vực nội thành.
7) Hoàn chỉnh quy hoạch về thoát nước đô thị, dựa trên nguyên lý cân bằng nước lưu vực, tiểu lưu vực.
8) Thể chế hóa về mức thưởng, phạt, đánh thuế thật nặng, đủ sức răn đe có liên quan tới thoát nước đô thị.

9) Tìm hiểu khả năng đào một kênh vành đai đủ lớn từ sông Sài Gòn, Q.12 qua H.Hóc Môn, về Bình Chánh, ra sông Chợ Đệm để tiêu nước khu vực nửa phía bắc và tây bắc thành phố.
10) Nạo vét, mở rộng sức chứa của các hồ trong công viên Hoàng Văn Thụ, Kỳ Hòa thành hồ sinh thái - điều hòa.
11) Không nên bê tông hóa vỉa hè, mà cố gắng tối đa cho nước mưa thấm xuống lớp nước thổ nhưỡng, giữ độ ẩm cho cây và tăng lượng nước dưới đất. Nơi nào có vỉa hè rộng, nên tạo thảm cỏ hay mảng xanh, vừa tăng tính thẩm mỹ sinh thái vừa tạo cơ hội cho nước thấm, giảm ngập.

12) Mỗi nhà nên xây mái bằng, trên đó nên có bể chứa nước mưa. Nếu mỗi nhà có một bể 10m3, thì cả thành phố có thể chứa khoảng 10 triệu m3, vừa có nước sạch để dùng, vừa chống ngập mùa mưa, làm mát mùa khô.
13) Chống ngập cục bộ bằng cách khoan giếng bổ cấp nước mưa, ngập xuống tầng nước dưới đất (xuống độ sâu 40-50m). Tuy nhiên phải có công trình nghiên cứu, chọn điểm, chọn tầng nước cần bổ cấp.
14) Chống ngập tình thế bằng cách đặt các máy bơm đủ công suất cho những vùng trũng cục bộ, bơm thẳng ra sông Sài Gòn, sông Nhà Bè...

15) Hạn chế tối đa đô thị hóa nhà cao tầng ở trung tâm các quận 1, 3, 5 và vùng đông nam TP, nếu cần phải xây thì trước hết phải tính khả năng chịu tải lưu vực.
16) Thận trọng, xem xét thật kỹ khi làm những con đường cản trở thoát lũ, thoát triều, chỉ nên làm đường kiểu "cầu cạn" nơi bưng trũng.
17) Thận trọng, xem xét thật kỹ khi quyết định đắp đê chống ngập.

Trần Thanh Bình (thực hiện)

nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/201012/20100319023744.aspx

100319- Sài Gòn “loạn” cốt nền - Bài 4: Giải pháp đang nằm đợi

Để phục vụ cho việc xác lập bản đồ cốt nền của TP.HCM một cách chính xác nhất, Sở Khoa học - Công nghệ (KH-CN) TP.HCM đã đưa ra một giải pháp rất khả thi: áp dụng công nghệ LiDAR...
Đường Lũy Bán Bích (Q.Tân Phú), một trong những con đường có số đo thực địa “vênh” rất nhiều so với bản đồ cốt nền chuẩn - Ảnh: Như Thảo

Lập được bản đồ 2 tỉ điểm độ cao

Thạc sĩ Nguyễn Khắc Thanh - Giám đốc Trung tâm Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GISC) thuộc Sở KH-CN TP.HCM - cho biết, xuất phát từ tình trạng cốt nền chuẩn của TP.HCM nhiều năm qua vẫn chưa được ứng dụng hiệu quả và rộng rãi, GISC đã tham khảo để đưa ra một giải pháp để xác định cốt nền chuẩn cho tất cả các khu vực và đây cũng là giải pháp để đối phó với triều cường, vốn là nỗi ám ảnh của người dân TP.HCM.

Dự án công nghệ LiDAR có mức dự toán đầu tư hơn 19 tỉ đồng, bao gồm các hạng mục chi phí thuê thiết bị, phương tiện và dịch vụ, mua bản quyền phần mềm chuyên dụng, mua sắm các thiết bị tin học...

Giải pháp dùng công nghệ LiDAR (viết tắt từ Light Detecting and Ranging), theo ông Thanh là xây dựng một mô hình 3 chiều phục vụ quản lý đô thị cho thành phố. Đề án này được thuyết minh là một chương trình viễn thám mới bằng loại máy bay thích hợp, bay ở độ cao từ 800 -1.000 mét và quét lên bề mặt của mặt đất (kể cả dò độ cao thấp của đáy sông hoặc độ cao của mặt đất ở dưới tán cây) bằng tia laser để ghi nhận mọi dữ liệu thông tin về độ cao của bề mặt địa hình.

Các chuyên gia của GISC cũng cho biết, nếu như bản đồ địa hình do các cơ quan chức năng cung cấp cho TP.HCM sử dụng hiện nay chỉ xác định được 608.797 điểm độ cao của TP.HCM và bình quân các độ cao cách xa nhau 50 mét thì khi sử dụng công nghệ LiDAR, có thể quét và lưu trữ dữ liệu được khoảng 2 tỉ điểm độ cao trên tổng diện tích 2.000 km2 của TP.HCM, khoảng cách mỗi điểm độ cao chỉ cách nhau từ 20-30 cm.

Chính vì độ chính xác và độ phân giải cao hơn rất nhiều so với các bản đồ địa hình trước đó, nên các mô hình ngập úng, mức triều cường và ranh giới các điểm ngập úng sẽ được cập nhật chi tiết hơn và bản đồ ngập úng này sẽ giúp cho người dân chủ động ứng phó với tình hình ngập lụt. Ngoài ra, ưu điểm của công nghệ LiDAR cũng sẽ giúp cho người tham gia giao thông biết được thông tin để chuyển hướng giao thông, tránh kẹt xe ùn tắc ở những giao lộ thường hay bị ngập lụt...

Ông Nguyễn Khắc Thanh đưa ra ví dụ, nếu nhập vào phần mềm của LiDAR dữ liệu triều cường của một khu vực tại Q.Bình Thạnh dâng lên trong ngày hôm sau là 1,51 mét, bản đồ mô hình ba chiều sẽ chỉ ra những điểm dân cư, những tuyến đường trong khu vực bị ngập và ngập sâu bao nhiêu. Với mực nước mưa hay nước biển dâng cũng có thể được công nghệ LiDAR đáp ứng như vậy. “Cho đến nay, các dữ liệu hiện có chỉ có tính 2 chiều, tức là chỉ thể hiện được các đối tượng địa hình, địa vật trên mặt phẳng mà chưa thể hiện được thông tin về chiều cao hoặc độ cao. Đây là một hạn chế lớn đối với các nhiệm vụ quy hoạch đô thị, vì vậy nếu có dữ liệu của mô hình 3 chiều, việc quản lý đô thị sẽ dễ dàng hơn rất nhiều”, ông Thanh nói.

Cốt nền sẽ rất rõ ràng

Thạc sĩ Nguyễn Đức Tuấn - Trưởng phòng Tư vấn và dịch vụ thuộc GISC - giải thích với chúng tôi ngay trên máy tính của mình về ưu điểm của LiDAR khi xây dựng bản đồ cốt nền. “Bởi nguồn dữ liệu thu thập được từ công nghệ LiDAR rất chi tiết nên có thể sử dụng để xây dựng mô hình số độ cao (DEM) và mô hình số bề mặt (DSM) 3 chiều cho toàn TP. Qua đó Viện Quy hoạch xây dựng có thể sử dụng trực tiếp để thành lập cốt san nền của tất cả các khu vực, đồng thời sử dụng cả DEM và DSM để giám sát, quy hoạch san nền của các công trình trên địa bàn TP.HCM” - thạc sĩ Tuấn nói.

Trong một văn bản thẩm định dự án này, ông Trần Bạch Giang - Cục trưởng Cục Đo đạc và Bản đồ (thuộc Bộ Tài nguyên - Môi trường) khẳng định: “Dự án ứng dụng công nghệ LiDAR xây dựng mô hình 3 chiều phục vụ quản lý đô thị tại TP.HCM là cần thiết. Việc lựa chọn công nghệ LiDAR làm giải pháp công nghệ thực hiện dự án là đúng đắn và phù hợp với chiến lược ứng dụng và phát triển công nghệ trong Chiến lược phát triển ngành đo đạc và bản đồ Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 33 ngày 27.2.2008”.

Nhưng điều mà các chuyên gia thuộc Sở KH-CN băn khoăn là dù dự án công nghệ LiDAR đã được Hội đồng Nhân dân TP.HCM đưa vào danh mục thông qua các dự án đầu tư từ năm 2008 và UBND TP.HCM giao cho Sở Kế hoạch - Đầu tư bố trí nguồn vốn ngay trong năm 2009 để xây dựng và thực hiện dự án này, thế nhưng cho đến nay, dự án về công nghệ LiDAR vẫn chưa được các sở chuyên môn có ý kiến thẩm định cho đầu tư thực hiện.

“Chậm trễ triển khai dự án này là một thiệt thòi lớn cho các nhà quản lý và người dân. Bởi đây là một công nghệ có tác dụng rất tích cực đối với nhiều ngành, vì vậy chúng tôi cho rằng các sở chuyên môn được UBND TP.HCM giao nên lưu tâm hơn và sớm thẩm định đến dự án này để được đưa vào ứng dụng rộng rãi trong thực tế” - một vị lãnh đạo Sở KH-CN phát biểu.

Trần Thanh Bình

nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201012/20100317224638.aspx

100319- Sài Gòn “loạn” cốt nền - Bài 3: Loay hoay chống ngập

Nhiều khu dân cư ở TP.HCM đã tồn tại cả chục năm nhưng bây giờ phải bị đào xới và buộc phải nâng nền nhà lên đến cả mét. Đây là hậu quả của việc tính toán cốt nền...

Thanh Niên đã nhận được nhiều ý kiến phản ảnh của các hộ dân thuộc hai khu phố 9, 10 ở phường 14, Q.Gò Vấp. Theo các hộ dân, họ đã cư ngụ tại đây gần 10 năm và dự án mà họ mua đất xây nhà do Công ty Phương Nam làm chủ đầu tư. Đây là một trong nhiều dự án phân lô hộ lẻ tại Q.Gò Vấp cho đến nay vẫn đang được UBND quận yêu cầu chủ đầu tư khắc phục hạ tầng cho đúng với tinh thần chỉ đạo của UBND TP.HCM.

Nâng đường, nhà dân khốn khổ

Vào tháng 10.2009, khi tính toán cao độ để nâng nền đường theo cốt chuẩn quốc gia, Công ty Phương Nam dựa trên kết quả khảo sát của đơn vị tư vấn, đã nâng nền đường lên từ 0,6-1,1 mét. Vậy là nhà của hầu hết các hộ dân thuộc các tổ 63, 64 (khu phố 9) và tổ 72 của khu phố 10 (phường 14, Q.Gò Vấp) đều bị lọt thỏm xuống rất sâu so với mặt đường.

Ông Đàm Văn Lộc - ngụ tại số 5/29A Quang Trung (tổ 64) cho biết: "Khi đơn vị thi công đến xây dựng các hố ga và xây con lươn bao để nâng đường nội bộ trong khu dân cư này, chúng tôi mới bật ngửa vì mặt đường sẽ nâng quá cao so với nền nhà của dân. Nếu phải nâng nền nhà cho vừa mặt đường sau khi hoàn thành, dãy nhà của tôi sẽ phải nâng lên gần 1 mét".

Ông Huỳnh Thanh Tùng - Tổ trưởng tổ 64 - cho hay: "Điều chúng tôi thấy bất ngờ là trước khi khởi công, chủ đầu tư không thông báo gì cả về việc sẽ nâng mặt đường cao lên như vậy. Sau đó, đào xới một thời gian, lắp đặt cống thoát nước và xây xong các hố ga, chủ đầu tư và đơn vị thi công lại bỏ giữa chừng, khiến cho người dân rất khổ sở".

Đề cập đến vấn đề cốt nền và ảnh hưởng do biến đổi khí hậu, KTS Nguyễn Ngọc Dũng cho rằng: "Để xem xét lại cốt chuẩn đối với thành phố đòi hỏi phải có "nhạc trưởng" và làm đồng bộ ngay từ bây giờ, phải xây dựng bản đồ ngập lụt, bản đồ triều dâng, bản đồ các vùng thấp để có biện pháp đầu tư hạ tầng cơ sở tương ứng, hạn chế phát triển đô thị về phía thấp, tổ chức tốt hệ thống thoát nước cho lưu vực và cốt xây dựng cụ thể cho từng con đường vào nhà dân...".

Ông Nguyễn Tùng Thái - Bí thư Chi bộ khu phố 9 - cho rằng, nếu trước đây khi lập dự án khu dân cư này, cơ quan chức năng xác định cụ thể cốt nền trước khi bà con xây dựng nhà thì nay không phải gặp cảnh khốn khổ như vậy.
Quan sát thực trạng hạ tầng tại dự án của Công ty Phương Nam, chúng tôi nhận thấy, hầu hết nhà của dân xây dựng từ 7-8 năm trước đều có quy mô 2-3 tầng. Nhưng trước các dãy nhà, đường nội bộ bị đào xới và các hố ga cao ngất ngưởng vẫn còn dang dở. "Nếu không làm xong kịp trước mùa mưa, chắc chắn các tuyến đường này sẽ thành sông, và nhà dân cũng sẽ bị ngập hết", ông Huỳnh Thanh Tùng lo lắng.

Có nên đắp đê?

GS-TSKH Lê Huy Bá - Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và quản lý môi trường - cho rằng việc chậm trễ ban hành cốt nền chuẩn là trách nhiệm rất lớn của các cơ quan chức năng TP.HCM. "Đẩy hàng ngàn hộ dân vào cảnh xây nhà xong vào ở rồi sau đó lại phải đập bỏ để xây lại vì phải nâng theo nền đường là một việc làm không thể chấp nhận được. Cung cách quản lý này cần phải thay đổi, nếu không trong vài năm tới, sự tốn kém của dân sẽ nhân lên gấp nhiều lần", ông Bá nói.

Gần đây TP.HCM có một dự án đắp đê chống ngập triều do nước biển Đông với kinh phí dự toán lên đến hàng ngàn tỉ đồng, tuy nhiên ông Bá cho rằng: "Đây là một dự án cần xem xét lại và xem xét một cách nghiêm túc. Phải đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Có nên đắp đê không và nếu đắp thì đắp ra sao? Bởi xem xét các khả năng đất nền địa chất vùng TP.HCM với độ dày tầng mặt bùn lỏng và hữu cơ của bãi lầy có nơi sâu đến 40m mới đụng đến nền đất cứng, thì việc đắp đê như thế nào để không bị sụt lún, trôi, trượt là điều rất đáng nghiên cứu".

Cũng theo GS-TS Lê Huy Bá, nếu đắp đê thì lấy đất đâu để đắp cho đủ đối với một con đê độ cao 2-3m, nếu kể cả lớp đất bùn lỏng phải thay sâu đến 30-40m và bề mặt đáy của đê tối thiểu phải là 10m. Hiện nay, một vùng nhỏ đê bao chống ngập cho lúa và nông thôn vùng ven TP.HCM năm nào cũng bị vỡ qua vài trận triều cường, với một con đê quy mô lớn như vậy thì phải làm thế nào để chống đỡ với áp lực dòng triều cực lớn.

Sẽ rất khó giải quyết tình trạng ngập lụt của thành phố với tình hình cốt nền không rõ ràng hiện nay - Ảnh: D.Đ.M

Mặt khác, nếu đắp đê bằng bê tông thì quả là quá tốn kém, không khả thi. Giả sử trong trường hợp có thể đắp được đê bao chống ngập triều cho TP.HCM thì phải kết hợp với các cống điều tiết ngăn triều ở các cửa sông, cửa rạch và vấn đề nước ngập trong nội thành do mưa sẽ giải quyết ra sao? Lúc đó nước thoát ra sẽ hết sức chậm và thời gian, độ ngập sẽ cao hơn. Hơn thế nữa, theo kết quả khảo sát, trong thành phần của đất ở vùng nam - tây nam và đông của TP.HCM chứa rất nhiều hữu cơ bán phân giải, tỷ lệ thường là 10% và có nơi đến 20-25%. Có nghĩa là khả năng thẩm lậu rất lớn, vì vậy mặc dù có đê nhưng nước dễ dàng xâm nhập qua lớp hữu cơ này, vấn đề đó sẽ phải giải quyết ra sao?

Trần Thanh Bình

nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201012/20100316220652.aspx

 

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2010

100316- Sài Gòn “loạn” cốt nền - Bài 2: Lạc hậu chỉ sau 3 năm

Thiếu dự báo về biến đổi khí hậu

Bà Phạm Thị Thanh Hải - Viện phó Viện Quy hoạch xây dựng (QHXD) thuộc Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM - khẳng định: "Cốt xây dựng khống chế tại 3 quận Tân Bình, Tân Phú và quận 2 đã có từ năm 2006. Đến nay thì 24 quận huyện đều đã có cốt xây dựng khống chế" và "Nếu quận huyện nào không sử dụng thì đó là chuyện của họ". Khi Thanh Niên đặt vấn đề: "Tại sao một số quận huyện phản ảnh rằng số đo cao độ trên bản đồ cốt xây dựng chuẩn do Viện QHXD phát hành có cách biệt khá xa so với số đo thực địa tại một số khu vực" thì bà Hải cho rằng, số đo được cập nhật vào bản đồ cốt xây dựng khống chế mà Viện phát hành năm 2006 căn cứ vào số đo trên bản đồ địa hình do Bộ Tài nguyên - Môi trường cung cấp năm 2004.

Theo bà Hải, trước đây hầu hết các đồ án quy hoạch chung trên địa bàn TP.HCM đều căn cứ vào hệ tọa độ Mũi Nai (Hà Tiên - tỉnh Kiên Giang) để xác định cốt xây dựng, nhưng từ năm 2004, cao độ chuẩn quốc gia được chính thức lấy theo hệ tọa độ Hòn Dấu (Hải Phòng). Giữa hai hệ tọa độ đó có mực nước trung bình chênh nhau 0,2m. Ngoài ra, các đồ án quy hoạch chi tiết tại TP.HCM khi xác định cốt xây dựng đều lấy theo mực nước trung bình đo tại trạm Phú An trên sông Sài Gòn là 1,32 mét. "Mực nước này là tính theo tình trạng chưa biến đổi khí hậu, trong vài năm trở lại đây có khi mực nước Phú An lên đến 1,51 mét. Vì vậy, cốt xây dựng khống chế sắp tới đây cũng có thể thay đổi cho phù hợp với tình hình mực nước dâng lên", bà Hải nói.

Theo cách đó, Viện QHXD đã xác định mực nước trung bình Phú An là 1,5 mét, cộng với 0,7 mét (do dự phòng mực nước dâng lên) và 0,3 mét được gọi là cao độ an toàn. Từ đó, Viện QHXD tính xác định một cao độ an toàn (đã tính đến ảnh hưởng do biến đổi khí hậu) là 2,5 mét đối với các khu vực ngoài đê bao, hoặc đối với các khu vực trong đê bao được xác định cao độ an toàn là 2 mét. Với thông số cao độ này, một vị lãnh đạo của Viện QHXD khẳng định: "100 năm nữa cao độ này vẫn an toàn, dù có tác động và ảnh hưởng do biến đổi khí hậu".

Theo những lập luận nói trên, có thể khẳng định rằng bản đồ cốt xây dựng khống chế mà Viện QHXD cung cấp cho 24 quận huyện từ năm 2006 để cập nhật vào các bản đồ án quy hoạch chi tiết 1/2.000 hoặc 1/500 nay đã hoàn toàn lạc hậu và không thể sử dụng được. Điều khiến dư luận thắc mắc là tại sao một đề án quan trọng, có liên quan đến nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực dân sinh như vậy mà lại không có một sự điều tra, khảo sát các thông số thực tế cũng như những dự báo về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, khiến mới sau  hơn 3 năm đã trở thành lạc hậu?

Một khu cao ốc căn hộ tại Q.Gò Vấp được xây dựng đúng với cao độ chuẩn quốc gia - Ảnh: T.T.B

Đã có nhiều bài học về cốt nền và ngập nước

Ông Nguyễn Văn Đực - Giám đốc Công ty tư vấn xây dựng Tân, một kỹ sư chuyên về nền móng bức xúc: "Chúng ta có nhiều bài học về chuyện cốt nền và ngập nước, trong đó có 2 trường hợp tiêu biểu là cư xá Thanh Đa xây dựng trước năm 1975 và khu dân cư Đinh Bộ Lĩnh - quận Bình Thạnh xây dựng sau năm 1975. Cả hai khu dân cư trên thường xuyên bị ngập úng khi có mưa lớn và triều cường, lý do là chọn cao độ nền không đúng vì không tính toán các điều kiện về thủy văn dài hạn, kể cả những dự đoán biến đổi khí hậu toàn cầu, không dự trù độ lún của toàn khu vực do san lấp và xây dựng trên nền đất quá yếu. Hiện nay chúng ta chưa có một "nhạc trưởng" cấp thành phố về quản lý cao độ các khu dân cư, vì thế "số phận" các khu dân cư này tùy thuộc vào năng lực, lương tâm của chủ đầu tư và tư vấn quy hoạch thiết kế. Do vậy cần thiết có một đơn vị quản lý có tầm nhìn bao quát và đưa ra những khuyến cáo cao độ nền khu vực và các dự án đầu tư, nhằm tránh tình trạng như cư xá Thanh Đa và khu dân cư Đinh Bộ Lĩnh".

T.T.B

2 mét hay lớn hơn 2,05 mét?

Ông Châu Minh Nhân - chuyên viên Phòng Quy hoạch 4 thuộc Viện QHXD - cho rằng: "Chúng tôi vẫn chưa hiểu được vì sao trong Quyết định 589/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng TP.HCM giai đoạn từ 2005-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng ký ngày 20.5.2008 xác định cao độ chính của TP.HCM là lớn hơn 2,05 mét. Bởi theo bản Quy chuẩn xây dựng của Bộ Xây dựng thì cao độ chính của TP.HCM được xác định là 1,9 mét". Cũng theo ông Nhân, từ nhiều năm qua, cao độ của các công trình trọng điểm của TP.HCM như Đại lộ Đông - Tây, dự án Vệ sinh môi trường nước cũng đều căn cứ theo cao độ 2 mét, vì vậy nếu nâng cao độ chính lên dù chỉ 0,05 mét, thì sẽ có rất nhiều đồ án quy hoạch đang trong giai đoạn thẩm định phải điều chỉnh lại.

Chuyên viên Châu Minh Nhân thuộc Viện QHXD TP.HCM với bộ bản đồ cốt nền TP.HCM phát hành năm 1996

Trong một văn bản của Viện QHXD gửi Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP.HCM để góp ý kiến về cao độ chính vào cuối năm 2009, Viện này đã căn cứ từ nhiều văn bản như Quy hoạch tổng thể thoát nước và xử lý nước thải TP.HCM được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 19.6.2001, Quy chuẩn xây dựng Việt Nam do Bộ Xây dựng ban hành ngày 3.4.2008 dẫn ra mực nước tần suất tại TP.HCM là 1,47 mét (sông Sài Gòn) đến 1,51 mét (sông Nhà Bè) để cho rằng cốt xây dựng khống chế đối với các khu vực trong đê bao được xác định 2 mét là hoàn toàn hợp lý, trong đó mực nước tần suất nói trên được cộng thêm 0,3 mét đối với đất dân dụng và 0,5 mét đối với đất công nghiệp.

Lấp hồ, bóp cống

Một kỹ sư ngành quản lý đô thị hiện công tác tại một đơn vị tư vấn thiết kế của Nhà nước cho biết: "Tình trạng các chủ đầu tư ăn gian cao độ nền để giảm bớt chi phí san lấp, nhằm giảm kinh phí cho dự án là khá phổ biến. Tuy nhiên, thay vì kiểm tra và có biện pháp chế tài, nhiều địa phương đã làm ngơ. Điều này đã dẫn đến một hệ lụy là sau khi thi công xong các hạng mục hạ tầng kỹ thuật dự án, chắc chắn sẽ có ngập úng xảy ra khi có mưa hoặc triều cường". Kỹ sư này cũng cho biết, tại nhiều dự án khi tính toán hướng thoát nước và lưu lượng nước, rất cần thiết phải dùng loại cống lớn để thoát nước cho khu vực dự án dễ dàng nhưng các chủ đầu tư yêu cầu đơn vị tư vấn thiết kế phải "bóp" cống nhỏ lại. "Chẳng hạn, mới đây tại một dự án ở quận ven, sau khi san lấp xong một đoạn rạch, thay vì bắt buộc phải dùng cống có đường kính 2.000 mm, chủ đầu tư lại yêu cầu đơn vị tư vấn chỉ thiết kế loại cống có đường kính 1.000 mm mà thôi. Tình trạng này diễn ra khá phổ biến, nhưng việc kiểm tra vẫn còn rất lỏng lẻo, năm thì mười họa các cơ quan chức năng mới phát hiện được một vài trường hợp".

Tình trạng "bóp" cống gây ra rất nhiều hệ quả xấu tại các khu dân cư mới, tuy nhiên vấn đề còn lớn hơn nữa là hệ thống các hồ điều tiết nước của TP.HCM hầu như đã biến mất gần hết. Trước năm 1998, khi trình lên Thủ tướng Chính phủ bản Quy hoạch tổng thể mặt bằng của TP.HCM định hướng đến năm 2020, thành phố đã đề xuất giữ lại một số hồ điều tiết để tiêu thoát nước ở nhiều khu vực, trong đó có hồ Bình Tiên (ở phường 10, quận 6) với diện tích khoảng 750.000m2, chuỗi một số hồ ở khu vực Văn Thánh, nối với nhau bởi rạch Văn Thánh (quận Bình Thạnh), hồ Kỳ Hòa, Đầm Sen... Thế nhưng, sau đó thì hồ Bình Tiên - có chức năng tiêu thoát nước cho khu vực phía tây nam TP.HCM, bao gồm các quận 6, 8, 11, một phần quận Tân Bình và huyện Bình Chánh - đã bị san lấp hầu như toàn bộ để xây dựng khu dân cư Bình Phú, chỉ để lại khoảng 10.000m2 để làm hồ cảnh trong khuôn viên khu dân cư. Còn các hồ ở khu vực rạch Văn Thánh cũng bị san lấp rất nhiều khiến cho các khu vực lân cận như Đinh Bộ Lĩnh, Bùi Đình Túy, đoạn quốc lộ 13 từ vòng xoay Hàng Xanh đến cầu Bình Triệu thường bị ngập lụt. Các hồ điều tiết như Kỳ Hòa, Đầm Sen tuy vẫn tồn tại nhưng đã bị thu hẹp và cũng chỉ là hồ cảnh chứ không thể đảm nhiệm được chức năng tiêu thoát nước…

Theo nhiều chuyên gia, với tác động của biến đổi khí hậu ngày càng lớn thì vấn đề triều cường và tiêu thoát nước không kịp sẽ còn đẩy TP.HCM vào cảnh ngập lụt nặng nề hơn trong tương lai.

Trần Thanh Bình

nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/201012/20100316011954.aspx

Chủ Nhật, 14 tháng 3, 2010

100315- Sài Gòn “loạn” cốt nền: Bài 1: Hàng ngàn dự án “áng chừng”

Cấp phép xây dựng tại quận Tân Phú cũng chỉ “áng chừng” cốt nền chứ chưa có quy hoạch hạ tầng kỹ thuật - Ảnh: D.Đ.M

Tình trạng quy định cốt nền cục bộ khi cấp phép xây dựng tại các quận, huyện ở TP.HCM đã tạo ra cảnh lô nhô cao thấp... khiến người dân phải mệt mỏi chống ngập.

Nhiều năm qua, tình trạng xây dựng lộn xộn và không có một cốt nền chuẩn để cập nhật vào các đồ án quy hoạch chi tiết 1/2.000 đã làm cho nhiều khu vực tại TP.HCM có độ “vênh” khác nhau trong quá trình thi công xây dựng. Trong bối cảnh đối phó với vấn đề biến đổi khí hậu, cốt nền luôn luôn là chuyện thời sự đối với một đô thị đang phát triển “nóng” như TP.HCM.

Tình trạng quy định cốt nền cục bộ khi cấp phép xây dựng tại các quận huyện đã tạo ra một bức tranh xây dựng lộn xộn, lô nhô cao thấp...

Đầu tháng 8.2004, trong một cuộc họp với các sở ngành, ông Nguyễn Văn Đua (lúc bấy giờ là Phó chủ tịch UBND TP.HCM) đã giao cho Sở Quy hoạch - Kiến trúc chủ trì nghiên cứu việc lập quy hoạch và quản lý cốt san nền trên địa bàn TP. Ông Đua cũng chỉ đạo đối với các khu vực đô thị mới phải vừa nghiên cứu hoàn thiện, vừa áp dụng thực tế và nhất thiết không để ảnh hưởng đến các dự án đang triển khai.

Tuy nhiên, đến thời điểm UBND TP chỉ đạo như vậy, hơn 1.000 dự án khu dân cư mới đã được giao đất và phê duyệt đầu tư trước đó. Điều đặc biệt quan trọng, các dự án này từ khi được phê duyệt (khoảng năm 1998 đến 2004) lại không hề được phê duyệt bản đồ nền, mà giới chuyên môn gọi là bản đồ chuẩn bị kỹ thuật đất xây dựng.

“Vòng luẩn quẩn Nhà nước nâng đường, dân nâng nhà, nước ngập sang khu vực khác, lại tiếp tục nâng đường, nâng nền nhà… đang diễn ra khiến cho người dân vô cùng mệt mỏi”.
GS-TS Lê Huy Bá - Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và Quản lý môi trường

Tùy tiện xác định cốt san nền

Do vấn đề cốt nền bị bỏ ngỏ trong một thời gian khá dài nên vấn đề cao độ san lấp tại các dự án được chủ đầu tư làm rất tùy tiện. Theo Viện Quy hoạch - Xây dựng (QH-XD) TP, nguyên tắc khi thực hiện dự án phải căn cứ vào hai yếu tố: thứ nhất là mực nước thiết kế 1,32 mét trong quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 6.2001), thứ hai là cốt xây dựng khống chế phải bằng hoặc lớn hơn 2 mét so với địa hình tự nhiên của khu vực mà dự án được xây dựng (mức này tùy thuộc vào địa hình thấp hoặc cao của từng khu vực).

Vào thời điểm giữa năm 2004, qua kiểm tra nhiều dự án khu dân cư, các sở ngành đã phát hiện rất nhiều bất cập trong việc đầu tư thi công của các chủ đầu tư. Kết quả kiểm tra tại quận 2 và quận Tân Bình cho thấy tại rất nhiều dự án, chủ đầu tư làm không đúng theo quy hoạch chi tiết 1/500. Chẳng hạn mức san lấp phải là 2,3 mét thì trên thực tế chỉ còn 1,8 mét hoặc theo thiết kế, phải sử dụng đường ống 800 mm để làm hệ thống thoát nước trục chính thì các chủ đầu tư chỉ sử dụng loại 500 mm... Để đạt được lợi nhuận cao, rất nhiều chủ đầu tư khi san lấp cốt nền tại các dự án đã giảm bớt độ cao so với các thông số kỹ thuật đã được duyệt của dự án.

Ông Nguyễn Trọng Hòa, vào năm 2007, lúc còn làm Giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP.HCM đã cho rằng, do phần hạ tầng kỹ thuật (trong đó có cốt san nền) chưa được quan tâm đúng mức nên đã xảy ra tình trạng san lấp cốt nền không tuân thủ theo quy định. “Do không được pháp lý hóa và quản lý trên toàn thành phố nên khi các chủ đầu tư xây dựng dự án, đã tùy tiện xác định cốt san nền chủ yếu theo hiện trạng của khu vực” - ông Hòa nói.

Mới đây, chủ đầu tư một dự án nhà ở tại phường Trường Thạnh, quận 9, do lo ngại diễn biến của biến đổi khí hậu về sau đối với dự án nhà ở do mình triển khai đã xin được nâng cốt nền lên 2,8 mét, thay vì 2,5 mét theo chuẩn của quận. “Sự tính toán này sẽ khiến cho dự án đạt mức độ an toàn cao hơn và qua đó, cộng đồng cư dân đến ngụ tại đây cũng sẽ yên tâm hơn”, đại diện chủ đầu tư này giải thích. Tuy nhiên, điều khiến nhiều người lo ngại là các dự án lân cận sẽ phải hứng chịu tình trạng ngập nước, bởi cốt san nền của các dự án này thấp hơn ít nhất là 0,3 mét! Rốt cuộc, bài toán này sẽ được giải ra sao trong tương lai?

Bản đồ "vênh" so với thực tế

Từ đầu năm 2006, Viện QH-XD TP đã ban hành bản đồ cốt xây dựng khống chế (giới chuyên môn gọi là bản đồ chuẩn bị kỹ thuật đất xây dựng) và TP.HCM đã chọn 3 quận gồm quận 2, Tân Phú và Tân Bình để thí điểm ứng dụng bản đồ này vào các công trình xây dựng tại địa phương. Thế nhưng, bản đồ cốt nền này rất khó sử dụng bởi độ “vênh” giữa số đo của bản đồ so với số đo tại thực địa.

Chẳng hạn, tại quận Tân Phú, giao lộ giữa đường An Dương Vương với đường số 3, trong bản đồ của Viện QH-XD ghi hiện trạng là 3.62, thiết kế 3.62 nhưng Phòng Quản lý đô thị (QLĐT) quận đo tại thực địa là 3.906; tại giao lộ Lũy Bán Bích với Hòa Bình, bản đồ ghi hiện trạng là 3.45, thiết kế là 3.45 nhưng khi cán bộ Phòng QLĐT đo thực địa lại có kết quả là 4.0; hoặc tại giao lộ Thoại Ngọc Hầu với Lũy Bán Bích, bản đồ ghi là 4.7, thiết kế là 4.7 nhưng thực tế là 5.06...

Chính vì có độ “vênh” như vậy, nên khi xác định cốt nền cho các khu vực tại quận Tân Phú, rất nhiều khó khăn xảy ra cho các cán bộ thụ lý hồ sơ cấp phép xây dựng. Bởi tại các điểm đo chính tại các giao lộ mà không chuẩn, không khớp nhau thì căn cứ để xác định cao độ tại các đường nhánh, hẻm nhỏ không thể thực hiện được.

Bà Lương Thị Phượng - Trưởng phòng QLĐT quận Tân Phú cho biết: “Đồ án quy hoạch chi tiết 1/2.000 của 11 phường thuộc quận Tân Phú đều đã được phê duyệt, tuy nhiên các hạng mục được cập nhật vào các đồ án này là quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch giao thông, còn phần quy hoạch hạ tầng kỹ thuật vẫn chưa có. Hiện nay, quận Tân Phú đang phối hợp với các sở ngành liên quan để xây dựng bản đồ về quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc vì bản đồ cốt xây dựng khống chế vẫn còn có độ “vênh” khá lớn so với thực địa”.

Cũng theo bà Phượng, chính vì chưa có bản đồ cốt nền nên khi thuê đo vẽ để xây dựng, người dân và đơn vị tư vấn đo vẽ vẫn chỉ “áng chừng” cốt san nền và trên cơ sở đó, cán bộ QLĐT thẩm định để cấp phép xây dựng.

“Lô nhô cao thấp”

Trả lời Thanh Niên, bà Phạm Thị Thanh Hải - Viện phó Viện QH-XD cho rằng, bản đồ cốt nền mà Viện ban hành chỉ là cốt xây dựng khống chế, sử dụng cho quy hoạch vùng và quy hoạch chung của các quận huyện, còn nếu muốn sử dụng, các quận huyện phải thực hiện tiếp một bước nữa là cập nhật cốt nền xây dựng vào các bản đồ án quy hoạch chi tiết 1/2.000 và 1/500 cho từng khu vực nhỏ. Sau đó mới xác định cốt nền cho từng công trình xây dựng cụ thể.

Cũng theo bà Hải, hiện có nhiều quận huyện không tuân thủ các quy định cốt xây dựng khống chế mà Viện đã ban hành để đưa vào các đồ án quy hoạch chi tiết. Điều này khiến cho tình trạng cốt nền khi xây dựng diễn ra lộn xộn tại từng địa phương, rất khó có một sự thống nhất, đồng bộ và hệ quả tất yếu là nhà xây dựng trên cùng một tuyến đường liên quận nhưng lại lô nhô cao thấp, rất dễ ngập úng cục bộ.

Giáo sư - tiến sĩ khoa học Lê Huy Bá - Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và Quản lý môi trường cho rằng, việc xác định cốt nền chuẩn để có cao trình xây dựng phù hợp và thiết kế hướng thoát nước theo lưu vực hoặc xây dựng tuyến đê bao là một vấn đề vô cùng quan trọng. “Đây là bài toán tổng hợp, đòi hỏi phải có một tầm nhìn trong quy hoạch đô thị. TP.HCM hiện vẫn đang lúng túng khi tìm lời giải cho bài toán này. Suốt nhiều năm qua, cung cách và giải pháp để chống ngập cho các khu vực thấp trũng vẫn được thực hiện theo kiểu “giật gấu vá vai”. Vòng luẩn quẩn Nhà nước nâng đường, dân nâng nhà, nước ngập sang khu vực khác, lại tiếp tục nâng đường, nâng nền nhà... đang diễn ra khiến cho người dân vô cùng mệt mỏi, chất lượng sống ngày càng đi xuống”.

Trần Thanh Bình

nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201011/20100314235426.aspx